CHƯƠNG 2 VÀ PHẦN KẾT THÚC < x >
Nầy Tu-Bồ-Đề! Như có người đem bảy thứ
báu đầy cả vô-lượng vô-số cõi nước để làm việc bố-thí. Như có trang
thiện-nam, người thiện-nữ nào, phát tâm Bồ-đề, thọ-trì kinh nầy, nhẫn
đến một bài kệ bốn câu v.v… tự mình thọ-trì, đọc-tụng, lại giảng cho kẻ
khác nghe, thời phước-đức của người nầy hơn người trước.
Giảng nói cho người khác nghe như thế nào? : – ” Không chấp lấy nơi tướng, như-như chẳng động?”
Bởi vì sao?
Tất cả những pháp hữu-vi
Khác nào mộng, huyễn, khác gì điện, sương.
Như bóng nước, như ảnh-tượng.
Xét suy như thế cho thường chớ quên!
Đức Phật nói kinh nầy xong, ông
Trưởng-Lão Tu-Bồ-Đề cùng với các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-Ni, Ưu-Bà-Tắc,
Ưu-Bà-Di, tất cả Trời, Người, A-Tu-La v.v… trong thế-gian, nghe những
lời của Đức Phật dạy, thảy đều rất vui mừng, tin nhận, vâng theo tu
hành.
NAM MÔ BÁT-NHÃ HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.
Đến
đây là phẩm cuối của kinh, đức Nhưlai đã nhiều lần lập đi nói
lại về việc bố thí tài, tức là tu Phước rồi đem so sánh với
người đọc tụng thọ trì và giảng nói kinh nầy là ý chỉ cho
Pháp thí tức tu Huệ thì phước báo sẽ được bền chắc, bởi vì
người đọc tụng có trí tuệ thì sẽ thấy được tánh rồi hướng
dẩn người khác cùng quay về để nhận ra bản thể chân-như đó
gọi là thành Phật thì công đức không thể nghĩ bàn. Những ai
đã nghe và hiểu kinh nầy đức Nhưlai khuyên nên giảng nói cho
người khác nghe, vậy người nói thì nói như thế nào ? và người
nghe thì phải nghe làm sao ? Nguyên câu : ” Không chấp lấy nơi tướng, như-như chẳng động?” câu nầy được chia ra thành 2 vế để chỉ người nói và người nghe. " Không chấp lấy nơi tướng" là người bố thí pháp,
như ngay nơi từ đầu đức Phật đã phá Tướng : không ngã, không
nhơn, không chúng
sanh, không thọ giã, người nói pháp chẳng nên chấp lấy mình
là TA, là bậc thầy hay vị bồ-tát đã có chổ và thời gian nói
pháp, bởi vì đã biết tất cả pháp đều vô-ngã rồi thì ai
thuyết, ai nghe...mà đức Nhưlai là chỉ cho pháp thân tức vô hình
tướng là chân lý của vũ trụ mà chân lý thì không có ngôn từ
nào diển nói cho hết được nên người nói không thể hiện hữu.
Cụm từ " như-như chẳng động " là chỉ cho người nghe, 2 chữ
như-như là viết tắc của câu : "Như vậy là Như vậy"...tức là
cái thấy và hiểu biết tất cả pháp qua tiến trình "thập như
thị" là cái cốt lõi chủ yếu của kinh Pháp-hoa là trạng thái
chứng ngộ của thiền giã.
"Chẳng động" không có nghĩa là đứng yên, mà khi vũ trụ xoay
đều thì muôn vật biến đổi, do biến đổi nên các pháp được trở
thành và có tên gọi dù là hữu-vi hay vô-vi.
”
Không chấp lấy nơi tướng, như-như chẳng động?”, người nói phải không
chấp lấy nơi tướng vì tướng là pháp sanh diệt nên còn kẹt ở
hai bờ...và người nghe phải : như-như chẳng động. Nghĩa là
người nghe cũng không có TA nghe mà chỉ có sự "lắng nghe", vậy
thế
nào là : sự lắng nghe ?
Khi
tai và bản thể được kết nối thì sự lắng nghe mới xãy ra,
toàn bộ ý thức trở thành việc nghe và không có bất kỳ một ý
nghĩ nào chen vào. Khi có TA nghe, thì Ta chỉ nghe những phần
Ta hiểu và không hiểu hết những lời của người nói, khi sự
thiếu vắng của cái Ta nghe bị đứt đoạn thì sẽ thay vào bằng
những vọng tưởng của tâm trí về cuộc sống, đó là lý do tại
sao người nghe xong lập lại không đúng, cho nên cái Ta nghe trở
thành một biển " cãi " mênh mong mà hơn 25 thế kỷ nay chưa hề
kết thúc.
Trở
lại "như-như bất động" là chỉ cho tánh nghe thanh tịnh và sáng
suốt của mình, đó là cái nghe của bản thể vì tất cả pháp
chúng như vậy là như vậy...đều là như : mộng, huyễn, tia điện,
sương, bóng nước, ảnh tượng...
Người
nghe thấu hiểu được kinh nầy rồi Thọ-Trì tức là hành pháp
nhẫn-trí, được như thế thì người ấy sẽ thấy Nhưlai.
Xin
hỏi: nếu như không có Người nói và Người nghe thì việc đọc
tụng thọ trì kinh Kim-cang để làm chi và có lợi ích gì ?
Người đọc tụng thọ trì tức còn thấy tướng nhưng tướng nầy là
tướng chân thật bằng lòng chấp nhận chân lý thiêng liêng, chỉ
có người Thật mới đáp ứng được và y giáo phụng hành.
LỜI PHỤ
Kim-cang
nghĩa là bộ " hàm thiết ngựa ", tức bộ dây cương dùng để
hướng dẩn ngựa đi, Bát-nhã Bala-mật là người nắm vững dây
cương để tự điều khiển con ngựa trong tâm-trí mình đi trong
chánh pháp. Kinh Kim-cang là bộ kinh phá mê khai ngộ mạnh nhất,
nó có thể làm nổ tung một tản đá vô minh bị chôn vùi hằng bao
nhiêu thế kỷ qua để trở thành một con người với cái tên mới
gọi là thành Phật. Tất cả các chư Phật đều do nơi kinh nầy mà
ra, chân lý là vũ trụ thiêng liêng không ai có thể đánh bại
được nó,
người chống lại chỉ có thất bại mà không thành công, cho nên
chân lý là cưu mang chư Phật, ngày được gọi là thành Phật là
ngày giọt sương tan biến vào đại dương.
Chân
lý không phải là tín ngưỡng, Phật gia không phải là tôn giáo.
Trong chân lý không có sự mong cầu, nơi đó là hư không vô hình
tướng nên không có những câu hỏi "tại sao ?" được đặt ra vì
không có người trả lời, nơi đó là thiêng liêng luôn trong sạch
thanh tịnh và sáng suốt. Thiêng liêng không bị giới hạn trong
khuôn khổ bởi Chùa chiền, Đền thờ hay Thánh điện nên việc cầu xin trở thành vô nghĩa.
Theo
giáo lý nhà Phật, thượng-đế chính là vũ trụ là cái tổng
thể bao gồm tất cả mọi thứ, chúng ta đang sống trong lòng của
thượng đế lại nổ lực đi tìm, ngài chỉ hiện ra khi tất cả mọi
thứ thuộc về vũ trụ đều phải buông bỏ, không người, không
vật, không một lời thăm hỏi về sức khỏe được tạo ra, nơi đó
hoàn toàn trống vắng và phẳng lặng như mặt nước đại dương nên
không có sự ngăn cách bởi đôi bờ, chỉ có người nhẹ nhàng như
thùng không đáy thì được cứu vớt, những ai còn tham đắm bởi
lời cầu nguyện thì sẽ bị chìm.
Hằng tỷ
tỷ người, thờ Phật, lạy Phật nhưng không mấy ai bằng lòng nghe
và làm theo đúng lời Phật. Kinh Kim-cang là nói về tánh không
của bản thể, tất cả mọi sự vật chúng đến như thế và ra đi
như thế mà không cần phải sửa đổi thêm, chỉ việc lập đi nói
lại câu : "tất cả đều chân thật" mọi lúc mọi nơi, mỗi giờ mỗi
ngày để được ghi vào trong ký ức, khi giấc mơ đến trong ký ức
không còn bất cứ điều gì để tạo ra mơ tưởng ngoài câu : "tất cả đều chân thật"...người trong mơ hoàn toàn nói lời thật thì giấc mơ trở thành sự thật đáng tin.
Tuệquang
viết những lời chia sẻ nầy gữi đến những ai đã sẵn sàng và
bằng lòng sống trong sự thật, lời văn có thể gây chút ấn
tượng cho người đọc, đó không phải là lời chỉ trích hay có
tính cách phê phán đạo Phật mà là những ý tưởng thô sơ chưa
thông suốt được toàn nghĩa của lời đức Nhưlai nói ra : " nếu Ta
nói đủ hết cả ra, hoặc có kẻ nghe đó trong lòng liền cuồng
loạn, nghi ngờ, không tin...phải biết rằng vì nghĩa lý của kinh
nầy chẳng thể nghĩ bàn được nên qủa báo cũng không thể nghĩ
bàn. ", nên đây chỉ là một phần lớp vỏ bên ngoài của thân
bồ-đề, tuy nhiên với những ai đã quyết tâm bốc được lớp vỏ cây
thì sớm muộn gì cũng nhận ra được cốt lõi ở bên trong. Những
ý tưởng viết ra thành lời nầy không phải của riêng Tuệquang mà là
sự lập lại lời giáo huấn của Thầy, của Mẹ và những thiện
tri thức của Tuệquang.
Viết xong bộ kinh nầy, Tuệquang vẫn còn
thấy một cái TA đang hiện hữu, ngước mặt nhìn Trăng rồi tự
hào nói lớn tiếng : " Cám ơn Thượng-đế ! con là một Phật-tử."
Tuệquang
xin chân thành cám ơn các sư, huynh, đệ, tỷ, muội đã khuyến
khích và cùng chung sức để hoàn thành bộ kinh nầy.
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu ni Phật.
Tuệquang kính bút
San Jose CA ngày 1 tháng 8 năm 2014
No comments:
Post a Comment