CHƯƠNG 2 PHẦN NỘI DUNG < g >
“Tu-Bồ-Đề! Như trong một sông Hằng có
bao nhiêu số cát, lại có những sông Hằng nhiều như số cát đó. Ý của ông
nghĩ thế nào? Số cát trong những-sông-Hằng đó, chừng có nhiều chăng?”
Ông Tu-Bồ-Đề bạch rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Rất nhiều. Nội những-sông-Hằng đã là nhiều vô-số rồi, huống nữa
là số cát trong sông!”
“Này, Tu-Bồ-Đề! Nay Ta nói thật mà bảo
ông: Nếu có trang nam-tử, thiện nữ-nhơn nào đem bảy thứ báu đầy cả ngần
ấy Hằng-hà sa-số cõi Tam-thiên đại-thiên để làm việc bố-thí, người đó
đặng phước có nhiều không?”
Ông Tu-Bồ-Đề bạch rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều.”
Đức Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: “Nơi trong
kinh này, nếu có trang thiện-nam, người thiện-nữ nào, thọ-trì nhẫn đến
một bài kệ bốn câu v.v… và giảng nói cho người khác nghe, thời phước-đức
này hơn phước-đức trước kia.
Này Tu-Bồ-Đề! Lại nữa, tùy chỗ nào giảng
nói kinh nầy, nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v… phải biết chỗ đó, tất cả
Trời, Người, A-Tu-La… trong đời, đều nên cúng-dường như là tháp miếu
thờ đức Phật. Huống nữa là, có người nào hay thọ-trì, đọc-tụng, trọn cả
kinh nầy!
Nầy Tu-Bồ-Đề! Phải biết người ấy thành-tựu pháp tối-thượng, hy-hữu bực nhứt.
Còn nếu kinh điển nầy ở tại chỗ nào, thời chỗ đó chính là có đức Phật, hoặc có hàng tôn-trọng Đệ-Tử của Phật.”
Bấy giờ, ông Tu-Bồ-Đề bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tên gọi kinh nầy là gì? Chúng con phải phụng-trì thế nào?”
Đức Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề rằng: “Kinh nầy tên là Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật, ông nên theo danh-tự ấy mà phụng-trì.
Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề, đức Phật nói Bát-nhã Ba-la-mật, chính chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật, đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật.
Đến
đây đức Phật đưa ra việc bố thí tài, vật...nói chung mà thông
thường thế gian gọi là " cúng dường ", ngài đem số cát sông
Hằng ra làm dụ để chỉ cho
phước đức, dùng 1 hạt cát của sông Hằng để thí dụ cho 1
con sông, thế thì tổng số cát đó tương đương
với qủa địa cầu thì làm sao mà tính đếm được ? chúng ta thử
chiêm nghiệm lại xem, nếu 1 hạt cát là 1 con sông Hằng thì cả
thế giới này chúng sanh phải dùng tàu bè làm phương tiện, mà
biển nước là chỉ cho sông mê biển ái, người biết lội hay không
biết lội gì cũng đều khổ giống như nhau...giả sử 1 trang nam
tử là chỉ cho 1 sông Hằng rồi đem 7 thứ báu vật như: vàng,
bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não đem cúng dường để
xây cất chùa to đúc tượng thần thánh lớn, rồi mỗi hạt cát là
1 sông Hằng mà nhiều vô số cát như thế tức là chỉ cho đoàn
thể vũ trụ cùng đem 7 thứ vật qúy hiếm đó mà cúng dường thì
việc làm này giống như thế gian nói đem tiền bỏ sông, bỏ biển
bởi vì không
đúng
với chân lý, đạo Phật chủ trương thuyết vô ngã vã lại người
tu theo đạo Phật không được cất giữ vàng bạc và vật dụng qúy
giá, vì đó là những vật bất tịnh thuộc giới cấm. Người bố
thí qua việc làm đã không đúng còn người nhận thì cho rằng "
ai bắt phạt " mình..v..v. thế thì nếu cho rằng việc bố thí như
thế là có phước thì phước đức đó nếu có nó nhiều biết là
chừng nào đúng không ? nhưng mà đức Phật dám qủa quyết, những
người bố thí như thế cũng không bằng người chỉ tụng bài kệ
chừng 4 câu hoặc giảng nói cho người khác nghe, bởi vì người
tin theo Thường kiến ngoại đạo là chỉ tin có một chiều nên gọi
là Đức tin, nghĩa là tin theo những điều lập ra
đặc ra từ bên ngoài mà không cần suy nghĩ, bởi vì những điều
chỉ dạy đó là do từ các bậc Thánh, quyền hạn hơn cả
vua...nhưng với người trí nếu họ nghe được kinh này thì dù chỉ
một câu họ hiểu và sẽ quay đầu, bởi vì đó phát xuất từ
Lòng tin, bằng chứng là có người tiều phu sau khi nghe qua câu
kệ trong kinh này đã trở thành tổ thứ sáu bên Trung quốc.
Khi
nói đến sông Hằng là nói đến tên của một con sông lớn ở
Ấn-độ, nó bắt nguồn từ Hy-mã Lạp-sơn
và bắt đầu chảy từ bao giờ chưa ai biết, thế thì dung lượng
nước đã chảy qua trên con sông ấy thử nghĩ có ai tính đếm được
không ? tư tưởng là dòng nước, thiền là sự tuôn chảy không bến
bờ. Cảnh tượng núi sông đất đá thuộc về thiên nhiên và trong
mọi khoảnh khắc đều thay đổi như một dòng nước. Chúng ta không
thể uống cùng một cụm nước trên dòng sông hai lần, có nghĩa
đừng để mất cơ hội, việc giác ngộ hay thành Phật không cần
chờ đến kiếp sau, cũng như không cần phải chờ nghe cho hết bài
kinh mà hãy vận dụng tư duy dù chỉ là bài kệ 4 câu cũng thừa
đủ cho chúng ta trở về với thiên nhiên sống với thiên nhiên, bởi
vì thiên nhiên không có bản ngã, cây cối
vẫn tiếp tục mọc, hoa vẫn nở mỗi mùa, chim vẫn hót một điệu
mà không cần thay đổi để hay hơn, bởi vì tất cả bản tính của
chúng đều vô ngã. Vàng bạc là tài thí, thất bảo là vật qúy
hiếm, nên thất bảo nhiều như số cát sông Hằng, nhiều vô số như
thế thì thất bảo và cát có khác chi đâu ? những gì hiếm thì
mới có giá trị, cho nên dù là tài thí nhiều nhưng đâu đâu
cũng có tựa hồ như giấy tiền vàng mã, không có giá trị gì
cả chỉ như là cát, rác vậy thôi mà vàng bạc thì người thọ
dụng được chỉ một đời, còn bố thí pháp để người khác nghe
hiểu và quay về sống với tâm Phật của mình thì sự thọ dụng
đó từ đời này sang đời khác, từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
Kế đến đức Phật nhắc đến
cảnh Lục đạo trong đó Trời, Người, Atula được nhắc đến, hạng
người này là đại diện cho những chúng sanh trong thời kỳ mạt
pháp, đức Phật nói chỉ cần 4 câu là họ có thể nghe hiểu và
đến dâng hoa cúng dường đồng thời cũng xây tháp miếu thờ Phật
bởi vì họ lìa bỏ được hạnh Tam vô : không cúng, không lạy,
không cầu...người như thế là người hy hữu bậc nhất, vì kinh
này phàm phu ít có mấy ai tin nghe để hành.
Ông
Tu-bồ-đề lên tiếng thưa thỉnh Phật nhầm muốn nhắc nhở cho
hàng hậu học biết những gì đức Phật dạy trong kinh này toàn
là chân thật không lừa dối hay phỉnh phờ nên
hỏi kinh
này tên gọi là chi và phải phụng trì như thế nào ?
Chúng
ta nghe Phật nói: " kinh này tên là Kim cang bátnhã balamật ",
đây là kinh chủ yếu, là kinh phá mê khai ngộ, chỉ có những ai
đã sẵn sàng tức là người có trình độ hiểu biết, nhận thức
được chân lý, người có trí tuệ sáng suốt bằng lòng sống trong
Bát nhã tự tâm mình thì mới thu nhập được thông điệp này.
Trong
bức thông điệp nói rằng : " Bát nhã Balamật, chính chẵng phải
Bát nhã Balamật, đó gọi là Bát nhã Balamật "
Đây
là lối thuyết pháp của Phật dựa theo Tứ-cú kệ, câu đầu "
Bát nhã Balamật " đức Phật xác nhận rằng CÓ, bởi vì do có
được trí tuệ sáng
suốt nên mới có Thánh nhân và có người gọi là Phật, do vậy
mà đức Phật đã từng qủa quyết : Bát nhã là Mẹ sanh ra ba đời
chư Phật. Câu giữa " chính chẵng phải Bát nhã Balamật
" đức Phật phủ nhận ngay tức là KHÔNG, bởi vì nó không phải
là một phương trình hay là hằng đẳng thức đáng nhớ, nó không
là gì cả " gọi đó là Bát nhã Balamật " vậy thôi vì đó là
cái gỉa danh chỉ cho một trạng thái của người " đối cảnh vô
tâm ".
Người thấy CÓ Bát nhã là đã sai rồi, người thấy KHÔNG lại càng sai hơn vì cả hai còn
dính vào văn tự. Khi
thấu hiểu được nghĩa lý lìa xa được văn tự thì cái CÓ và KHÔNG này...đều đúng cả.
Bộ
kinh này không phải đức Phật truyền đạt bằng lời qua các từ
ngữ như thế, chúng ta phải dùng sự hiểu biết của mình qua kinh
nghiệm sống rồi vận dụng tư duy theo lời kinh từ từ rồi sẽ
nhận ra. Đừng chấp vào văn tự gọi là Bát nhã Bala mật mà cho
đó là những bậc thang đá bước lên tượng Phật đài. Nếu chúng
ta không quan tâm quán sát thì những bực thang đó có thể biến
thành các chướng ngại trên bước đường tu, bởi vì đây là lời
lập lại của ngài Anan, nó giống như mũi tên chỉ hướng đi bên
lề đường, người quyết tâm đi đến thì mũi tên mới có giá trị
và lợi
ích.
No comments:
Post a Comment