CHƯƠNG 2 PHẦN NỘI DUNG < u >
Tu-Bồ-Đề! Nếu ông nghĩ thế nầy: Đức Như-Lai, không phải vì có tướng cụ-túc mà được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác!
Tu-Bồ-Đề! Ông cũng đừng nghĩ như vầy: Đức Như-Lai há chẳng do nơi tướng cụ-túc mà được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác sao?
Tu-Bồ-Đề! Nếu ông nghĩ như vầy: Người
phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác nói các pháp đều đoạn diệt. Ông
đừng nghĩ như thế. Bởi vì sao? Vì nơi các pháp, người phát tâm
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác không nói tướng đoạn diệt.
Từ
đầu đến giờ đức Phật phá tất cả chấp để trở
về với tánh không của bản thể, thì tại đây vì biết ý của
chúng sanh nên ngài đưa ra vài nghi tình : nếu đức Nhưlai nói như
thế thì những chúng sanh phát nguyện tu thành Phật cuối cùng
rồi chẳng được gì sao ? rồi nhân-qủa cũng không có, tức tướng
đoạn diệt nghĩa là sau khi chết là... chấm hết, không còn lại
một vấn đề gì nửa cả ? có thật vậy không ?
Sau
khi nghe qua đức Phật thuyết từ đầu chương đến bây giờ chúng ta
có thể tự trả lời thay cho đức Phật được không ? Đây là sự
suy nghĩ của đức Phật vì biết khó có người nghe và tin nỗi
kinh nầy dù chỉ 4 câu, cho nên ngài mới nói ông Tu-bồ-đề đừng
nghĩ như thế. Tại sao một người khi nghe xong kinh nầy rồi lại
còn thắc mắc hỏi việc tu thành Phật cuối cùng rồi chẵng được
gì sao ? đức Phật đã có nói "được" đấy chứ ! nhưng có mấy
ai chịu nghe và bằng
lòng, ngài nói
thân tướng thì vẫn thế, lúc trước thấy nó là giả tạm bây
giờ mới biết nó là thân chân thật nên tên gọi lúc sanh ra không
còn mà được mọi người thay thế bằng từ : Thành gọi là Phật.
Đó là việc Thành của người được giải thoát giác ngộ. Tên của
mình có là do Ngã-tướng dựa trên Nhân-tướng...Phật là chỉ cho
trạng thái không có hình tướng, nên Ngã-tướng và Nhân-tướng
không còn, đã tướng không còn thì ý niệm linh hồn tức Thọ-giả
tướng có đâu để đi tái sanh ? Người tu theo đạo vô-ngã mà còn
mong được thành cái gì để lại thì ý nghĩa các tướng còn
đậm nét hơn, người còn muốn được gì thì năng đọc tụng thọ
trì lại từ đầu bộ kinh, khi tất cả mọi
ý nghĩ "được" không còn khởi lên nửa thì đó là lúc gọi
"chứng" vậy thôi.
Nên nhớ : đạo
Phật không phải là tôn-giáo nên người tin theo không phải là
người tu, không cần phải cạo đầu hay xuất gia, không cần phải ăn
chay trường hay bốn lần trong tháng và cũng không cần cầu
nguyện hay làm theo bất cứ hình thức nào mà các tôn-giáo đã
tạo ra. Chùa chiền, đền thờ hay thánh điện là nơi để cầu
nguyện, mọi hình thức cầu nguyện thuộc về tôn-giáo, tôn-giáo
là đức tin, tin có đấng, cõi, thượng đế để mong cầu...tất cả
đều do con người tưởng tượng rồi xây dựng nên. Cho nên chữ tu,
người tu, có chổ cầu nguyện là có tôn-giáo, do vì lẽ đó mà
đức Phật
nhắc đi nhắc lại việc đem tài thí nhiều như núi Chúa Tu-di để
xây cất chùa, đền thờ, đúc tượng cốt...đều vô bổ chẳng có
phước đức chi cả là như thế. Cho nên người gọi là Tu theo đạo
Phật thì chẳng cần sửa đổi gì cả theo giáo lý Phật giáo thì cái "được" nó đã có sẵn chỉ cần Nhẫn là nhận ra.
Người
phát tâm vô-thượng chánh đẳng chánh giác là người đã thấy
hiểu các pháp không có tướng đoạn diệt, hiểu tất cả pháp có
đều do duyên sanh xưa nay vẫn thế mà chẳng có diệt hay mất đi
đâu...đó là người thấy được Nhưlai.
Người
đã phát tâm vô-thượng chánh đẳng chánh giác rồi mà còn "nói
các pháp đều đoạn diệt". Đoạn
diệt nghĩa là chấp vào
tướng khi chết rồi thì mất hẵn không còn lại gì cả...là
những người chỉ thấy ở điểm cuối không thấy lúc khởi đầu và
rồi vũ trụ sẽ điêu tàn dần không còn một cái gì để lại...đó
là những người không hề thấy biết về Nhưlai.
Nhắc lại, đức Phật thuyết tất cả chúng sanh đều có phật tánh và mỗi chúng sanh đều có 3 thân:
- Hóa thân hay còn gọi là Ứng hóa thân do thất đại tạo thành.
- Báo thân là sự đền trả, theo lý nhân qủa chỉ cho tướng xấu, tốt, nam hoặc nữ.
- Pháp thân là bản thể vô thỷ vô chung, như như của vạn pháp, do đủ duyên nên có ra như thế rồi mất như thế.
Tuy nói ba thân
nhưng chúng là một, trong cái một nó bao gồm tất cả...
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu Bồ-tát đem bảy thứ báu đầy cả những cõi nước bằng số cát sông Hằng để làm việc bố-thí.
Nếu lại có người biết lý vô-ngã của tất
cả pháp mà đặng thành nhẫn trí. Vị Bồ-tát nầy được công-đức hơn
phước-đức của vị Bồ-tát trước. Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề! Vì các vị
Bồ-tát không nhận lấy phước-đức.”
Ông Tu-Bồ-Đề bạch với đức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao các vị Bồ-tát không nhận lấy phước-đức?”
“Nầy Tu-Bồ-Đề! Vị Bồ-tát phàm có làm việc phước-đức thời chẳng nên tham-trước, vì thế nên nói là chẳng nhận lấy phước-đức.
Nơi
phần đầu kinh đức Phật dùng từ "người" tức "thí chủ" làm
việc bố thí tài nhiều như số cát sông Hằng...đến đây ngài nói
đến việc làm bố thí của Bồ-tát cũng dùng 7 báu nhiều như
thí chủ trước kia để đem ra so sánh về công đức. Việc làm của
thí chủ trước kia đức Phật nói phước có nhưng rất mỏng cạn,
không bằng người chỉ đọc tụng thọ trì 4 câu trong kinh nầy. Rồi
ngài ví dụ nếu Bồ-tát đem
bảy thứ báu đầy cả những cõi nước bằng số cát sông Hằng để làm việc
bố-thí...thì cũng chẳng nhận được phước gì của ai ban cho, thế
thì nếu
đem hai việc làm bố thí nầy để so sanh thì đâu có khác chi ?
pháp hành về tài thí thì ngang nhau nên phước đức cũng mỏng
cạn ngang nhau, chỉ khác nhau ở điểm là "Thí chủ" và
"Bồ-tát". Thí chủ là đại gia nên 7 báu là điều có thể, còn
Bồ-tát là bậc xuất gia thì 7 báu nầy do đâu có ? cho nên ngay
cả người tu và người không tu khi chưa bằng lòng với cái hiện
mình đang có thì gọi là tham. Tham tức còn mong cầu tìm vui say
đắm trong ngũ dục, dùng mọi hình thức để tạo ra tiền nên đức
Phật gọi là "tham trước", người còn tham trước không thể gọi
là bồ-tát vì họ chưa biết nghĩa lý của vô ngã là gì ? cho
nên đức Phật dạy : vô ngã là người không còn cảm thọ bất cứ
điều
gì, không còn ý tưởng về tham danh cầu dục,
không bận tâm vào vật để bám víu dù là qủa bồ-đề hay
Niết-bàn vô thượng. Bồ-tát mà hành pháp nhẫn dù có ai đem 7
báu nhiều như số cát sông Hằng đến cúng dường thì cũng phải
nhẫn trí cho đến khi không có thứ gì cần phải thọ nhận. Nếu
đã gọi là bồ-tát mà không nhẫn thì làm sao có được vô ngã ?
người biết được diệu dụng của sự an lạc rồi giảng nói lại
cho người khác nghe thì công đức của vị bồ-tát nầy hơn hẵn
mọi phước đức của những vị bồ-tát tham trước.
Trở
lại kinh đây là phẩm đức Phật phá bỏ tệ trạng người tu hành,
đã là bồ-tát mà quên đi nhẫn-trí chỉ dạy thí chủ dùng tài
thí cúng dường để đổi phước hơn là hiểu biết về lý vô-ngã.
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu có người nói: Đức Như-Lai
hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, thời người ấy không hiểu nghĩa
của Phật nói. Bởi vì sao? Vì Như-Lai đó, không từ nơi nào lại, mà cũng
không đi về đâu, nên gọi là Như-Lai!
Như-lai
không phải là tướng, nhưng do vì chúng sanh chấp trên 32 tướng
nên nói có: đi, đứng, nằm, ngồi. Nhưlai là bản thể bất sanh
bất diệt, không có ngã nên chẳng có linh hồn, Nhưlai tựa như
đám mây, đi đến đều như thế mà không có mục đích, nên gọi là :
đức Như-lai.
Nầy Tu-Bồ-Đề! Như có trang thiện-nam,
người thiện-nữ, đem cõi tam-thiên đại-thiên đập nát ra vi-trần. Nơi ý
ông nghĩ thế nào? Các vi-trần đó có nhiều chăng?”
Ông Tu-Bồ-Đề bạch rằng “Bạch đức
Thế-Tôn! Rất nhiều. Bởi vì sao? Vì nếu những vi-trần đó là thiệt có,
thời đức Phật chẳng nói là những vi-trần.
Vì cớ sao thế? Vì đức Phật nói những vi-trần chính chẳng phải những vi-trần, đó tạm gọi là những vi-trần.
Bạch đức Thế-tôn! Cõi tam-thiên,
đại-thiên của đức Như-Lai nói, chính chẳng phải thế-giới, đó gọi là
thế-giới. Bởi vì sao? Vì nếu thế-giới là thiệt có ấy, thời là một
hợp-tướng.
Đức Như-Lai nói một hợp-tướng chính chẳng phải một hợp-tướng, đó tạm gọi là một hợp-tướng”.
“Nầy Tu-Bồ-Đề! Một hợp-tướng đó bèn là chẳng thể nói được, chỉ nơi kẻ phàm-phu tham trước việc ấy thôi.
Không có
trang thiện-nam,
người thiện-nữ nào làm được việc đem 3 ngàn cõi đại thiên đập
nát ra thành vi-trần. Đây là đoạn đức Phật nói về sự thành
hình một con người với 3 thân qua lý duyên sanh, để hiểu rõ
đoạn nầy : vi-trần là hạt bụi nhỏ li ti mắt thường không thể
thấy được nên ngài "tạm gọi đó là những vi-trần", trong những
số vi-trần nầy tạm chia ra làm 7 thể loại gọi là thất đại
chờ đủ duyên để hội tụ thành Ứng-Hóa thân. Thế giới là từ
dùng chỉ cho một chúng sanh tức Báo thân là do sự tương quan
của vô số vi-trần : hút đẩy, ít nhiều, nặng nhẹ mà có ra nên
đức Nhưlai tạm gọi đó là một hợp-tướng. Ba ngàn cõi đại thiên
là Hư-không chỉ cho Pháp thân bao quát cả vũ
trụ.
Đức Phật thuyết : "Như
có trang thiện-nam,
người thiện-nữ, đem cõi tam-thiên đại-thiên đập nát ra vi-trần" nghĩa
là khi chết bất kỳ ở đâu, dù nam hay nữ khi đem thiêu tất cả
trở thành tro bụi hòa vào hư không nên trong kinh nói rằng :
thất đại trả về cho thất đại...là trở lại với tánh thanh
tịnh là Pháp thân của mình nên nói thế giới nghiền nát ra
vi-trần là thế. Vi-trần và thế giới là một, do vô số vi-trần
theo duyên là sự nương gá nên kết tụ thành thế giới, chúng
không khác nhưng tên gọi thì khác vì đã trở thành một pháp
trong muôn vạn pháp. Thế giới là Báo thân vì do vô số vi-trần
kết hợp lại nên đức Nhưlai nói " không thật ", bởi vì mọi hình
tướng đều là pháp hữu-vi có sanh thì có diệt nên còn gọi là
huyễn tướng nhưng phàm phu vì sống trong sự cầu nguyện để
được ban bố nên chấp vào thượng-đế là có thật nên sanh ra con
người là Thật.
No comments:
Post a Comment