CHƯƠNG 2 PHẦN NỘI DUNG < o >
Nầy
Tu-Bồ-Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế
nào? Như có người đem bảy thứ báu, đầy cả cõi tam-thiên đại-thiên để
dùng bố-thí. Do nhơn-duyên như thế, người ấy có được phước, có nhiều
chăng?”
“Bạch đức Thế-Tôn! Đúng thế. Người đó, do nhân-duyên ấy, được phước rất nhiều.”
“Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu dùng phước-đức là có,
hữu-vi, thì đức Như-Lai chẳng nói là được phước-đức nhiều. Do vì
phước-đức là không, vô-vi, nên đức Như-Lai mới nói là được phước-đức
nhiều.”
Nơi
đây một lần nửa đức Phật
nhắc đến việc bố thí tài, người đem 7 thứ báu vật đầy cả
vũ trụ mà bố thí thì theo nhơn duyên như thế nương theo thế
gian đức Thế-tôn nói người đó có phước đức nhiều
vì phước đó là phước hữu-lậu không bền chắc. Vàng, bạc, mọi
thứ vật chất đều là pháp hữu-vi có rồi mất không tồn tại
được lâu dài, người bố thí như thế là người căn cơ qúa mỏng
ham ưa pháp tiểu-thừa tin vào phước báo có thần thánh ban cho,
nên việc bố thí nhiều như thế mà không học hiểu rõ đạo lý
thì giống như người đi mua phước, một hình thức có tính cách
trao đổi, bánh ít trao đi bánh qui nhận lại...vậy thôi. Vàng,
bạc, chuổi ngọc...tất cả vật qúy giá đều là những vật làm
cho thân bất tịnh, là giới
cấm của người tu, nếu đem đến
chùa chiền hay đền thờ để đổi lấy phước thì vô bổ vì tự
mình đã sa vào đất cấm, nơi đó không có giữ người hay cất
giấu vật bất chánh. Nếu chúng ta nhìn sâu vào tư duy thêm thì
việc làm đó chẵng qua là đặt điều kiện cho một vấn đề, rồi khi điều kiện hai bên không cân bằng thì phải nhờ đến
quan tòa dùng cân công lý để giải quyết...người có thất bảo
nhiều như qủa địa cầu rồi đem ra làm việc bố thí thì
xưa nay chưa có một ai..., đoạn này chúng ta phải là người quan
sát khách quan như một vị thẩm-phán thì mới hiểu rõ ý nghĩa
của người ghi lại kinh này. Trong kinh Pháp-hoa nơi phẩm Phổ-môn
đức Phật có thuyết rằng : " nếu có những chúng sanh
vì cầu thất bảo mà vào đại-hải để tìm, khi thuyền trôi vào
xứ của qủi La-sát, nếu một người trong nhóm niệm bồ-tát
Quán-thế-âm thì tất cả đều được thoát nạn..." Như mọi người
đã hiểu thất-bảo gồm có : vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu,
mã não...là những vật qúy hiếm của thế gian, chúng thuộc về
hình sắc mà mọi hình sắc thì chỉ có ở cõi Sắc tức thế
giới Ta-bà nầy, mà người bố thí bảy thứ báu vật đó đầy cả
tam thiên đại thiên thì chỉ có Đấng hay Thượng-đế mới làm được
nên đất trở thành qúy hiếm. Theo Thiên-chúa giáo Thiên-đàng là
đất thánh của Chúa cai quản, đối với người ít hiểu biết sự
nhận thức quá nhỏ hẹp nên gọi là Vườn-địa-đàng, rồi khi Adam
phạm giới ăn trái Cấm thì Chúa đuổi ra khỏi nơi Vườn ấy...nói
đuổi đi là điều răng dạy hù dọa trẻ thơ để sợ mà năng giữ
giới, chớ địa đàng là bề mặt của qủa địa cầu thì nói đuổi
đi là đuổi đi đâu ? Đất theo
kinh Adiđà là do bảy thứ báu vật tạo thành chỉ cho tâm-địa
của mỗi chúng sanh, là nơi thanh tịnh an vui không có các điều
khổ, nhưng người giàu có lại muốn giàu thêm do vậy mà chúng
sanh phải lặng lội vào đại hải là nơi nguy hiểm để tìm...đến
khi sa vào xứ qủi La-sát tức là có sự tranh chấp về đất đai
nhà cửa chổ ở, việc nhỏ thì kiện tụng đâm chém nhau, việc
lớn thì chiến tranh cướp bốc giết lẩn nhau tạo ra cảnh khổ
của thế gian đâu đâu cũng có do nơi muốn làm chủ đất mà ra. Qủa địa cầu chính là qủa khổ bởi những đường kẻm gai ranh
chia chi chít như số cát sông Hằng...nếu ai không tin chỉ cần
dời đường ranh lấn sang bên cạnh chỉ một Tất thôi thì qủa khổ
sẽ trả lời Có
hay Không cho các bạn. Mà qủi La-sát đó là ai ? chính là lòng
tham lam cực độ bên trong mình, khi cảnh khổ đến chổ tuyệt
vọng tức qủi La-sát sắp bắt đi thì niệm bồ-tát Quán-thế-âm
sẽ được cứu, nghĩa rằng : "niệm" tức là nhắc nhở mình hãy
lắng nghe lời dạy của chư phật, thất bảo là qủa bồ-đề do bảy
vật qúy hợp lại mà từ trước giờ không để ý quan tâm đó gọi
là : thất bồ-đề phần gồm có : niệm - trạch pháp - tinh tấn -
hỷ - khinh an - định - xả. Hiểu được mọi vật chất đến đều do
duyên, mà duyên hợp thì có lúc sẽ tan...ngay nơi hơi thở của
mình còn không giữ được lâu thì cái gì tồn tại mãi mãi ?
Cho
nên người tu theo tiểu thừa tin rằng việc bố thí tài càng
nhiều thì thần thánh sẽ ban phước nhiều, nhưng việc làm như
thế khiến cho những người giải đải đi trái đường tu do lòng
tham muốn mà ra nên nơi gọi là "trang nghiêm phật độ " trở thành
chổ kinh doanh tạp hóa to lớn không thể lường. Trong truyện
Tây-du ngài Ngô-thừa-ân viết lên phẩm : nạn Hoàng-kim-phong nói
lên với số
vàng nhiều như số cát sông Hằng
thổi đến sẽ làm mù mắt bất cứ ai dù là
người có đầy đủ trí tuệ sáng suốt như Tôn-ngộ-không.
Những người bố thí tài nhiều, việc nầy họ cho là Nhân tưởng
rằng sau khi chết nhờ công đức đó được sanh trên thất bảo của
cõi Phật Adiđà hưởng phú qúy giàu sang đó là Qủa...nhưng trong
lý nhân-qủa không có vấn đề mua bán hay trao đổi, nơi đó cũng
không có người thọ nhận. Nơi thời mạt thế là đạo giáo tiểu
thừa họ tin vào tha lực hay đấng cứu rổi hơn là tự lực nơi
chính mình, giáo lý dạy tu phước đối với những người ấy
"không thấy mà tin" đó là đức tin chấp Có nên đức Nhưlai hỏi ý
ông Tu-bồ-đề như thế nào ? thì được trả lời là : "được rất
nhiều" rồi đức Phật giải thích, nếu việc làm bố thí đó mà
nghĩ rằng "phước đức
là có, thì
đức Nhưlai chẵng nói là được phước đức nhiều..." bởi vì
phước đức không thể mua hay trao đổi, do vậy đức Phật muốn xác
nhận một lần nửa là thượng-đế không có, giả sử như Có thì người nhận tiền đó làm chi để mang tội hối lộ.?
Nơi cõi Cực-lạc của Phật Adiđà, đất nơi đó cũng do bảy thứ báu nầy tạo thành thì đất
đó do ai tạo nên ? thế thì
:
Cõi Cực-lạc và cõi Ta-bà nầy là một hay là hai ?
Đức Nhưlai nói : tùy kỳ tâm
tịnh tắc phật độ tịnh, dục tịnh phật độ tiên tịnh kỳ tâm.
Khi
tâm mình tịnh tắc ba nghiệp thân khẩu ý đều không lổi thì nơi
đó chính là cõi cực-lạc, mà Adiđà nghĩa là vô lượng quang là
ánh sáng trí tuệ có sẵn trong tự tánh của mỗi người, lúc
đó gọi mình là Phật hay Adiđà cũng cùng một nghĩa. Bởi vì
Giác là vô vi pháp
là Không Pháp, người hiểu như
thế hành như thế là người thấy
được phật pháp sống trong chánh pháp người ấy có an lạc nên
tạm gọi là có phật-nhãn vậy thôi, nên " đức Nhưlai mới nói là
được phước đức nhiều ".
No comments:
Post a Comment