Đọc qua đoạn này chúng ta thấy đức Phật đưa ra vấn đề ngũ nhãn, đó là năm cái thấy dựa theo ngũ thừa Phật giáo để nói về cái thấy biết tu tập của mỗi thừa. Người tu thừa nào thì hưởng qủa của thừa đó, thông thường thế gian hiểu Đạo là con đường, dựa theo kinh nói cho dể hiểu : trên cùng một tuyến đường có 5 điểm du lịch từ gần đến xa. Thừa là cổ xe, mỗi cổ xe đều có một giáo pháp khác nhau tùy theo khả năng của mình, người mua vé đến chặng nào thì xuống nơi đó...Nhục nhãn là chỉ cho cái thấy biết của người tu Nhân-thừa thọ Tam qui ngũ giới là tu đạo làm người, chỉ mong kiếp sau được làm người trở lại, dựa theo luật pháp của mỗi quốc gia, sống hiền làm thiện không vi phạm pháp lý thì chẵng ai kết tội mình, lấy nhân qủa làm điểm tựa để tu, tin có sự thưởng phạt của thần thánh hay thượng đế do vậy mà tưởng tượng rồi tạo hình đúc cốt để thờ. Lý Nhân-qủa là thuyết tương đối được đặt trên mặt bàn gồm có 2 điểm A và B, A gọi là Nhân, B gọi là Qủa. A là điểm khởi đầu B là điểm đến...đó là chỉ về mặt thời gian. Nhân-thừa là trạm dừng chân đầu tiên cho những ai thích ngắm cảnh xem hoa dâng hương lễ bái, cầu phước cầu an, cầu cho mưa thuận gió hòa...đó là cái thấy bằng mắt thường tiếng Hán gọi là Nhục-nhãn. Khi đức Phật hỏi ông Tu-bồ-đề : "đức Nhưlai có nhục-nhãn chăng ?" thì ông ấy xác nhận Nhưlai có nhục-nhãn, còn nếu như ai hỏi mình có nhục-nhãn không thì câu trả lời sẽ lại khác là : có nhục-nhãn, lông mi cong dài và chân mày rậm...chân mày nằm kế bên mắt không thấy lại diển tả là rậm ? nên nhục-nhãn là cái thấy những gì gần trước mặt, cái thấy bị giới hạn, những gì bị ngăn che thì không thể diển tả được.
Thiên-thừa là chặng đường kế tiếp cho những ai tu Thập-thiện hành 10 điều lành thọ Tam qui giữ tám giới không phạm thì kiếp sau sanh lên cõi Trời hưởng được phúc lạc giàu sang. Kiếp sau cũng là người nhưng được uy quyền địa vị và thế lực hơn như vua, quan hay tổng thống...vì là ở cõi Trời có mắt nhìn xuống nên gọi là thiên-nhãn. Thiên-thừa là trạm dừng chân ngay trên giữa đèo, cho những ai muốn nhìn mây, thấy khói lam chiều, trông cảnh hoàng hôn...để mong cầu về các cõi. Người tu nhân-thừa thì mộng bình thường với cuộc sống giản dị nhưng không hiểu rõ chân lý, họ là những người tiêu cực, sống trong Dục-giới và Sắc-giới, người tu thiên-thừa có mang tính chất tích cực hơn, do lòng tham hơn, tin trên Trời có nhiều tầng, có 33 cõi tức là sống trong cảnh giới Vô-sắc mong kiếp sau sanh về một trong những cõi đó để nắm quyền thiên hạ. Hai thừa này trong kinh gọi là pháp Tiểu-thừa là giáo lý giai cấp của ngoại đạo, đức Phật phương tiện đối với những người ít hiểu biết mà nói, ngài dùng Sửa gọi đó là Thuốc để chửa bệnh Khổ cho họ. Bởi vì đức Phật nói Khổ không có. Khổ có là do các ông... nhưng với người chấp trước họ cho Khổ là hình phạt từ thượng đế nên họ chỉ cầu lạy van xin không chịu uống thuốc, cho nên phải nói Sửa để độ họ, khi tin biết được việc cầu xin không có kết qủa thì lúc đó đức Phật mới cho họ biết đó là Sửa không phải thuốc, muốn uống thuốc gia truyền của Phật gia thì phải đi tiếp bởi vì các ông đang đứng ở giữa đèo. Sửa chửa được bệnh chấp thì thuốc thật còn hay biết dường nào, đúng không ? cho nên họ phải tiếp tục đi nửa thôi. Thiên-nhãn là cái thấy còn ảnh hưởng bởi giai cấp, cái thấy của bậc trí thức vay mượn văn tự từ bên ngoài do bởi bản ngã, cho mình là hiểu đạo hơn người, chỉ nhìn xuống không thấy được chung quanh, còn mong về cõi Trời nên còn phải chịu luân hồi trong lục đạo. Trong truyện Tây-du ngài Ngô-thừa-ân dùng 2 vị quan đại thần như cánh tay trái, phải của Ngọc-hoàng thượng đế là : thần Thiên-nhãn và Thuận-phong nhĩ để nói lên cái thấy của giai cấp còn bị lệ thuộc vào Thiên-đình của ngoại đạo thần giáo. Làm sao một người có thiên-nhãn lại nhìn vào bát nước đếm được trong đó có 84 ngàn con vi trùng ? rồi bảo mọi người làm một lọc nước bằng vải để tránh tội sát sanh,...vi trùng là gì ? nó giết mình hay mình giết nó ? Thiên-nhãn của đạo Phật là cái thấy của sự hiểu biết sâu xa, ngài hỏi ông Tu-bồ-đề Nhưlai có thiên-nhãn chăng thì ông ấy trả lời Có, vì ông biết như thế-tôn đã từng nói không có thượng đế hay thần linh cũng như 33 cõi trời mà ngoại đạo thường mong cầu. Tất cả 10 cảnh giới lục đạo và tứ thánh đều ở trong tâm mình, cái thấy chứng minh được thì đó mới là thiên-nhãn. Thiên là Trời, trên tầng mây xanh vô tận kia không có Ông nào cai quản, mình muốn thành ông gì thì tự mình tạo nên trong mười cảnh giới đó...
Xa hơn một chặng nửa là đỉnh đồi, nơi đó có cổ xe Thanh-văn thừa, chung quanh chỉ có mây, không một bóng người không có nhà cửa, ngựa xe, quan thầy hay nô bộc, mọi vật đều bình đẳng, không cao không thấp, không có người trí kẻ vô minh, tất cả chỉ là một chấm nhỏ, cái thấy nơi đây vượt ra khỏi cái thấy ràng buộc của thế gian qua quán chiếu và thực hành 37 phẩm trợ đạo, hành giã nhận ra năm uẩn đều không, mọi tham, sân, si, khổ đau đều được đoạn trừ không còn tái diển nửa nên nói được giải thoát luân hồi là sự tự tại của một trạng thái vô-ngã. Người ấy Nhưlai nói được Huệ-nhãn.
Duyên-giác thừa hay trung-thừa là qủa vị của Bích-chi Phật, người quán tưởng lý "thập nhị nhân duyên", viễn ly được mọi vọng tưởng mê lầm không chân thật, thấy vạn pháp là giai không sự vô thường sanh diệt của tạo hóa chúng đến như thế và đi như thế, bậc Duyên-giác thích sống yên tỉnh một nình nơi vắng vẽ hơn là đi hoằng pháp, ai có duyên đến gặp thì độ cho họ, Nhưlai nói người đó có pháp-nhãn.
Bồ-tát thừa là chặng dừng chân cuối cùng để bước lên đài Sen gọi là thành Phật, tưởng rằng trở thành ông gì đó nào ngờ đài Sen xem rõ lại chính là nơi điểm mình khởi hành. Chân lý là một vòng tròn tuyệt đối, người tinh tấn phát tâm tiếp tục đi mãi thì đến được chổ rốt ráo, nơi đó là đài Sen Đức Phật gọi đó là Niết-bàn do công phu thiền định là kết qủa của sự buông bỏ ngã và pháp, là do mình tạo ra nên khi giác rồi thì đi đâu ở đâu nơi đó là đài Sen là Niết-bàn... ngài nói chúng sanh đều là Phật cả đấy nhưng chẵng có mấy ai tin, họ bằng lòng phục tùng qùi lạy tượng cốt vô tri vô giác hơn là trân trọng lạy một vị Phật thường trú trong bản thể của chính mình. Bồ-tát cũng là Phật là người thật chứng thấy các pháp đều như thị, rồi đi đánh thức mọi người, người đó là một vị Phật nên có được Phật-nhãn.
Tại sao qủa chứng bồ-đề vô thượng không có mà bây giờ đức Phật lại xác định rằng có ngũ nhãn nghĩa là thế nào ?
Như đã chia sẻ qua, kinh Kim-cang nầy là đức Phật dạy cho hàng hậu học các đệ tử của ngài vào thời mạt pháp, ngài nói ra từ đoạn đầu đến đoạn cuối đều là lời nói thật không phỉnh phờ để hướng dẩn trở lại, nếu có ai đó nghe hiểu chỉ cần đọc bốn câu rồi giảng thuyết cho người khác nghe thì bánh xe pháp sẽ được tiếp tục quay trở lại, bởi vì chân giáo của phật gia đã dừng lại sau khi thế tôn viên tịch. Ngài đã nói Ta không hề có chứng đắc, bởi vì nếu Có, thời phải chứng minh mà chứng minh tức biện luận, còn biện luận là còn tranh cải còn thấy có Ta là bản ngã, mà chân lý thuộc về vũ trụ nơi đó tất cả đều không có một vật thì có cái gì mang về làm cái của Ta, chỉ có Ta mới là người duy nhất ? tại sao phải thế ? Trạng thái an lạc thuộc về vô vi pháp nên không thể đem nó ra để trên mặt bàn rồi nói : đây là cái chứng đắc. Ngũ-nhãn không phải là năm con mắt mà là cái nhìn từ gần đến xa, với mắt thường là nhục nhãn, xa nhìn không thấy, vật gần sát bên mắt lại càng không thấy, nhưng với Phật-nhãn đó là cái thấy qua Thiền, sự hiểu biết bằng trí tuệ trong đó không có sự phân biệt, các pháp đều bình đẳng một là tất cả, pháp giới là nhất chân.
Sau đó đức Phật đem số cát của sông Hằng để làm dụ chỉ cho cõi Phật, vậy cõi Phật đó có nhiều chăng ? chẵng những nhiều mà không thể tính đếm được, ngài ví đó như tâm niệm của chúng sanh, nên nhớ tâm niệm là ngã tướng là vọng tưởng còn niệm Mê tức là chúng sanh, hết mê tức Giác cho nên dù có hằng hà sa số chúng sanh trong mười phương đức Phật, ngài biết rất rõ tất cả đều là ngã tướng không sai khác, đều tin có thượng-đế và linh hồn bởi vì cái thấy biết đó của ngài qua Phật-nhãn nên Nhưlai nói các thứ tâm đó đều không phải là tâm, đó là vọng tâm thứ tâm sanh diệt không muốn đứng yên...nên đó gọi là tâm là nói cái tâm thanh tịnh của mình do vậy mà ngài nói cõi phật có nhiều. Mọi vọng tưởng, mọi suy nghĩ tất cả những hạnh phúc và khổ đau đều phát xuất từ nơi tâm, câu nói : không hôm qua, không hôm nay, không ngày mai...đó là đạo vượt ra ngoài ngôn ngữ ý nói lên sự vô phân biệt. Thấy có hôm qua là chấp về qúa khứ, xưa bày nay làm, đem dĩ vãng trở về lấp trong ký ức để luyến tiếc, để thương nhớ, để thấy ông bà tổ tiên còn đói khổ vất vưởng. Nhìn vỏ trứng gà tưởng đó là con gà nên cúng kiến thờ phụng lạy lục, mà quên đi rằng nó đã thọ sanh hằng bao nhiêu kiếp. Cho nên dựa theo tâm đức Phật nói tâm qúa khứ không có là chỉ cho kiếp trước, người nói biết được kiếp trước của mình là gì thì hãy chỉ bày ra cho đức Nhưlai xem thử ? không thôi lại vướn vào tội nói dối mà hủy báng Nhưlai.
Tâm hiện tại là tâm rộng lớn hằng hà sa số cát, phật ví như qủa địa cầu và cao diệu dợi như núi chúa tu-di, không thể lường trước được, khi nói đến tâm việc đầu tiên là nghĩ về qúa khứ và mơ về tương lai nên tâm không thể là hiện tại được, nó bắt chước làm những cái người xưa để lại, nên tâm hiện tại không có chi mà đặng, tương lai thì chưa tới lại là một khối vọng tưởng, làm sao những cái chưa từng xãy ra lại có sẵn tâm và linh hồn trong đó ? cho nên kiếp sau hiểu theo thần giáo thì chẵng thể có.
Người đúng người sai, người điên người không điên, người trí kẻ vô minh. Làm sao chúng ta tìm ra được người đứng giữa của sự tranh chấp này, người giữa là Trung-gian tìm không thấy mà giữa là chỉ cho Hiện-tại, nếu người trung gian được tìm thấy thì hai người đối đải sẽ không còn. Phật nhãn là con mắt thứ ba đứng từ bên ngoài để giám định sự việc này, cho nên cả ba tâm Qúa khứ, hiện tại và vị lai đều không có, do vậy lý nhân-qủa cũng bị triệt tiêu.
Nếu không có tâm qúa khứ và vị lai cũng như không có kiếp trước và sau thì khi chết con người sẽ đi về đâu ?
- từ đâu đến đây hãy trở về chổ đó..., chân lý là phật tánh là hư không, không đâu mà chẵng có. Nếu chúng ta thanh tịnh và im lặng thì cái còn lại chỉ là hơi thở nên gọi là Sống giống như không khí nằm trong qủa bóng, mặc dầu mắt thường không thấy được hư không nhưng nó có trong đó, khi qủa bóng nổ tung gọi là Chết thì qủa bóng còn hay không ? không khí là như như hiểu theo phật-giáo, thần-giáo gọi đó là linh hồn...không khí nằm trong qủa bóng bấy giờ đi đâu ? chúng hòa nhập vào bản thể của vũ trụ liền hay khối không khí hoặc linh hồn ấy phải chờ 49 ngày để nhập vào qủa bóng mới ? điều nầy có tin được chăng ?
No comments:
Post a Comment