Trở lại với 32 tướng tốt, đức Phật luôn luôn nhắc nhở chúng ta: " phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng " tất cả pháp hữu vi không có gì tồn tại lâu bền so với thời gian của vũ trụ chúng chỉ là một tíc tắc. Do vì bản ngã chạy theo cái ham muốn nên kinh phải nói thế, do vì chúng sanh chấp vào 32 tướng của Phật mà không hiểu rõ nghĩa lý nên Nhưlai nói: " 32 tướng chính chẵng phải tướng, đó chỉ tạm gọi tên là 32 tướng. " bởi vì bản thể của các pháp luôn thanh tịnh nên nói thật tướng của các pháp là vô tướng, do vì vọng tưởng nên mới có ra tốt đẹp mà tốt đẹp xấu xa là danh từ đối đải nên làm cho tướng bị Hư nghĩa là trở thành không thật, vì thế nên nói " Hư, Vọng " cho nên tướng có đều do vọng mà ra. Ngày Huệ-năng đến gặp Ngũ tổ Hoàng-nhẫn, tổ hỏi: " ông đến đây cần gì ? ", Huệ-năng trả lời: " cầu thành Phật. " điều này cho chúng ta biết rằng ý nói thân này là Thật vì chỉ người có thân Thật mới " cầu thành Phật " mà thôi. Hai chữ Thật và Phật thuộc vô-vi pháp nên nhớ điều này nếu như mọi người đều hiểu rằng " phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng " thì thế gian này không một ai thành Phật cả. Bồ-tát Thường-bất-khinh xưa kia do có thân Thật không hư hoại nên sau mới là Phật Thích-ca chứ có ai đâu xa. Những gì có tướng đều gọi là sanh diệt, nhưng tại sao Phật có 32 tướng mà không bị diệt ? tướng là theo pháp hữu-vi mà nói, tướng này chỉ cho Thái tử Tất-đạt-đa. Cho nên người có vành tai dài, trên đỉnh đầu có bướu, tóc xoắn hình con ốc...đừng dựa vào các tướng ấy mà gọi là Phật, đức Phật không phải là ca sĩ, người mẩu hay minh tinh điện ảnh nên đừng tô son điểm phấn cho ngài vì xưa nay trên thế giới này chưa có tài tử nào trở thành Phật cả. Một bậc gọi là chân tu không mái chùa khi giác ngộ ẩn trốn trong hang động hay rừng sâu rồi tịch ở đấy, người đó chỉ được giác mà chưa ngộ, bởi vì rời bỏ thế gian để tìm Phật bên ngoài, tìm không có, Phật ở khắp mọi nơi, chỉ tại thế gian mới có Phật ra đời và đi đánh thức mọi người, việc thành Phật không phải là trốn chạy hay xa lánh vọng tưởng mà chỉ cần BIẾT và buông bỏ nó thôi, Phật là một trạng thái nên không hình tướng, Thượng-đế hay Phạm-thiên là đấng sáng tạo, chúng ta chỉ biết qua sách vở do con người tưởng tượng ra, có ai thấy rõ hình tướng của họ bao giờ chưa mà tôn thờ ?
Thượng đế ơi ! nhìn ông không hình tướng,
Phạm-thiên à ! ngài chẵng có dung nhan.
Còn Tâm tôi diện mạo cũng không còn,
Không là bản thể sanh ra muôn pháp.
Tại sao lại có vấn đề đem thân mạng ra bố thí nhiều như số cát sông Hằng ? dù nhiều như thế mà phước đức cũng không bằng người thọ trì bài kệ trong kinh này chừng 4 câu, thế thì chúng ta đủ biết tầm quan trọng của kinh này là như thế nào. Bởi vì như đức Phật vừa nói : " phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng " tất cả những gì có hình tướng đều là giả tạm ngay như tướng của Nhưlai cũng giả nốt thì việc qùi lại tượng cốt có ích gì ? phước đó ai ban ? chân lý là sự thật vĩnh hằng bất biến, vọng tưởng là giả tạm mê muội u minh, người đem hàng giả hàng nháy nhiều như số cát sông Hằng ra đổi lấy một viên kim cương thì không thể nào, cho nên người nghe chỉ 4 câu thôi mà hiểu được thì trí tuệ tỏ sáng như kim cương. Ý của Phật luôn nhắc nhở chúng ta nên thường xuyên trì tụng kinh này và đồng thời phải tìm hiểu rõ nghĩa lý của kinh để đừng vướng vào thường kiến của ngoại đạo. Hiện nay cả thế giới số người tin có thượng-đế, có linh hồn đi đàu thai nhiều như số cát sông Hằng và xưa nay chiến tranh vẫn xãy ra mỗi ngày, mỗi lúc, mỗi nơi nhưng việc " cầu nguyện hòa bình cho thế giới " thì điều này chưa hề có kết qủa. Người đến với đạo Phật là đến với chân lý, chân lý bao giờ cũng công bằng và không phân biệt, hạnh phúc, an vui, tự tại thì đó mới thật sự gọi là phước đức.
Tại sao một người đã chứng ngộ " giải không đệ nhất ", ông đã có Huệ-nhãn rồi mà khi nghe kinh này lại khóc ?
Bởi vì nước mắt là sự tuôn trào ra từ bản thể bên trong mình, nước mắt không nhất thiết là biểu hiện qua nổi buồn mà đôi khi nó còn biểu hiện cho sự vui mừng lớn giống như bạn bè thân lâu năm không gặp nhau. Đôi khi nước mắt cũng tỏ rõ cho tình yêu, khi nước mắt tràn ra có nghĩa là bình chứa đã qúa đầy dù đầy những khổ đau hay sung sướng. Nước mắt luôn trong sáng và có một vị mặn, trong nước mắt không có mang tính chất buồn hay vui nhưng vị mặn chính là hương vị đậm đà tuôn trào ra của khổ đau hoặc hạnh phúc. Nước mắt chính là biểu lộ sự thay đổi trong lòng, có thay đổi thì thân mình sẽ không khô cằn như sõi đá.
Nước mắt của trưởng lảo Tu-bồ-đề trào ra là sự tự buông bỏ từ những thứ sai lầm từ trước đến giờ đã chất chứa đầy ấp trong lòng mà không thấy biết để thu vào những chân lý mầu nhiệm mà Nhưlai đã truyền trao. Tuôn ra là để nhận vào để thấy được ân huệ thật tướng của Nhưlai, rồi liền sau đó ông quan tâm đến chúng ta, ông lên tiếng nếu 500 năm sau nếu có ai nghe hiểu bằng lòng rồi thọ trì đọc tụng thì cũng sung sướng và rơi nước mắt giống như ông hôm nay. Việc rơi nước mắt là chỉ cho kết qủa của sự thay đổi trong tiến trình tu tập, bạn đã từng thấy một lực sĩ reo hò, rơi nước mắt khi họ nhận được huy chương vàng chưa ?
Này Tu-bồ-đề lại như có người nghe kinh này mà lòng không kinh hải, không e sợ, không nhút nhát thời phải biết người đó chính là hy hữu bậc nhất, bởi vì sao ? vì rời lìa tất cả tướng, chính đó gọi là chư Phật.
Như kinh đã nói Phật thì vô hình tướng, người giác ngộ là người thấy rõ thế giới này là thật là sanh thiệt tướng vì lìa được thân tướng giả, chỉ có người thật mới thấy được cảnh thật do vậy mà đức Phật nói: " tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành " vũ trụ thiên nhiên là một vẽ đẹp tuyệt vời với đầy đủ ánh sáng và niềm hân hoan an lạc vì tất cả nơi đó mọi thứ đều vô ngã, đó không phải là giấc mơ, mà mọi giấc mơ về hình tướng và vật chất đều không còn, bởi vì tất cả các pháp chúng đến như thế và đi như thế.
No comments:
Post a Comment