CHƯƠNG 2 PHẦN NỘI DUNG < e >
Tu-Bồ-Đề! Ý của ông nghĩ thế nào?
Đức Như-Lai có chứng được quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác chăng?
Đức Như-Lai có nói pháp chăng?"
Ông Tu-Bồ-Đề bạch
rằng: "Như con hiểu ý nghĩa của Phật nói, thời không có pháp nhứt định
nào, gọi là Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, cũng không có pháp nhứt
định nào, mà đức Như-Lai có thể nói được. Bởi vì sao? Vì pháp của đức
Như-Lai nói, đều không thể vin lấy, không thể nói được, chẳng phải
pháp, chẳng phải "không-phải-pháp". Tại vì sao? Vì tất cả Hiền-Thánh,
đều do nơi pháp vô-vi mà có từng-bực khác nhau".
Qủa
Vô thượng chánh đẳng chánh giác không phải là cái văn bằng
của ai đó cấp cho, bởi vì chân lý là tuyệt đối nơi đó không
có trường dạy và người dạy. Người có được qủa Vô thượng
chánh đẳng chánh giác không phải giống như người vừa phá được
kỷ lục của môn thể thao mà là trạng thái Vô phân biệt không
còn vướng vào bờ này bờ kia, người vượt ra ngoài cái đối đải
của nhị nguyên, người có khả năng sống với chính mình, chỉ
có người sống được với chính mình thì mới có khả năng sống
với người khác, người đó hiểu rõ chân lý và sống hoàn toàn
trong chân lý, có khả năng toàn giác để hướng dẩn mọi người
cùng liểu ngộ giống như mình. Bởi vì qủa Vô thượng chánh đẳng
chánh giác " chẵng phải
pháp,
chẵng phải không phải pháp "...mà là Vô vi pháp tức pháp Không
là ý nói không có pháp gì cả. Pháp vô vi chính là pháp vô
sanh mà vô sanh thì không thể chứng được, chẵng suy lường được
mà cũng không thể diển tả được. Làm sao mình có thể diển tả
được cái chưa có sanh ra bao giờ ? cho nên khi nói đến có chứng
đắc thì ngay tại đó ý nghĩa đã nói lên còn một bản ngã đang
hiện hữu. Đạo Phật dùng 2 chữ Vô Ngã thật tuyệt vời và chính
xác, khi một người đạt được trạng thái vô ngã thì nơi đó
không còn cái Ta, trong thiền không có thiền nhân ấy mới gọi là
thiền, cho nên không có gì chứng đắc và cũng chẵng có người
nói pháp...do vậy khi đức Phật hỏi :
Đức
NL có nói pháp chăng ? ông Tu-bồ-đề lên tiếng xác nhận thay
Phật rằng: theo chổ con hiểu ý của Phật nói là đức NL không
hề có nói pháp, bởi vì mình đừng tưởng rằng việc bố thí
pháp giống như người cầm được tấm bản đồ trên tay vẽ mọi
đường để đi đến. Người cầm bản đồ tự mình đã không biết
đường và kế đến nửa là không có bất kỳ tấm bản đồ nào có
thể chứa đủ cả một quốc gia nói chi là cả thế giới. Người
nói pháp chỉ dựa trên tấm bản đồ đã in sẳn và chỉ trao cho
những ai muốn tìm đường, tất cả mọi chi tiếc lớn đều nằm trên
đó nhưng nhớ rằng chớ có tôn thờ bản
đồ
rồi qùy lạy như các tượng thánh. Huyền Giác thiền sư có nói
lên tâm ý của mình :
" Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhơn,
bất trừ vọng tưởng bất cầu chơn
vô minh thực tánh tức Phật tánh
ảo hóa không thân tức pháp thân... "
Vũ
trụ là cả một bầu hư không vô tận trong đó chân lý là những
điều bí ẩn, nếu mình nhận có nói pháp thì những bí ẩn
đó không còn và khoa học ngày nay sẽ không được gọi là tiến
bộ nửa, khi những bí ẩn của vũ trụ
chưa được tìm ra hết thì đó là lúc cái biết của mình vẫn
chưa biết . Làm sao mình dám diển giải những cái mình chưa
biết ? cho nên đức Phật chỉ nói những gì ngài biết và kinh
nghiệm trải qua trong cuộc sống rồi truyền đạt để mọi người
đều cùng có kinh nghiệm sống như ngài..." tôi biết cái tôi biết
và tất cả đều biết... " thì điều đó mới có giá trị. Trong
chân lý không có độc quyền, nó không phải của riêng ai, không
phải của riêng Nhưlai và cho dù ngài không nói ra thì các pháp
đó xưa nay vẫn vậy. Khi ngón tay chỉ vầng trăng, không phải chân
lý chỉ ở chổ đó và chỉ có bấy nhiêu đó...khi nắm một nắm
lá trong tay nên biết những lá trong tay, nếu chưa biết hết lá
trong
tay thì tìm lá ngoài rừng có ićh gì ?
Trong
thế giới này mọi thứ đều có thể trao cho hay gữi tặng nhưng
chân lý thì không thể được, bởi vì nó không phải là sản phẩm
được tạo ra...chân lý là vũ trụ mà con người thì qúa bé nhỏ
so với vũ trụ thì làm sao nói hết những điều to tát như thế ?
Qủa
vô thượng bồ-đề nói Có là khái niệm chỉ cho người viễn ly
được mọi sự ham muốn trong nội tâm của mình, không còn sống
trong mê lầm lạy lục cầu xin, người ra được khỏi tam giới gia
là căn nhà vô minh phiền não: dục giới, sắc giới và vô sắc
giới với thân, khẩu, ý hoàn toàn không có lổi...tùy theo pháp
hành của thiền giả dựa trên khái niệm mà tạm chia ra từng
bậc hiền thánh khác nhau. Thí dụ trong giới xuất gia cấp bậc
được chia ra từ dưới lên trên theo thứ tự là : Đại-đức,
Thượng-tọa, Hòa-thượng, Đại lão Hòa-thượng..v..v..Giác ngộ là
trạng thái thuộc vô vi pháp, người giác ngộ thì chỉ có tự
người ấy biết, Trời cũng là mình, Thánh cũng là mình, Phật
cũng là mình...tự mình định đoạt số phận của mình.
“Tu-Bồ-Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Như
có người đem bảy thứ báu, đầy cả cõi tam-thiên, đại-thiên, để làm việc
bố-thí, phước-đức của người đó đặng, có nhiều hay chăng?”
Tu-Bồ-Đề bạch rằng: “Bạch đức Thế-Tôn,
rất nhiều! Tại làm sao? Vì phước-đức đó, chính là không phải thật
phước-đức, cho nên đức Như-Lai nói là phước-đức nhiều”.
“Còn như có người, nơi trong kinh nầy,
nhẫn đến thọ-trì một bài kệ bốn câu v.v… lại giảng nói cho người khác,
thời phước-đức nầy trội hơn phước-đức trước. Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề!
Tất cả các đức Phật, và pháp Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác của các đức
Phật, đều từ kinh này mà có ra. Nầy Tu-Bồ-Đề! Phật-pháp nói đó chính
chẳng phải là Phật-pháp.
Và
đây là đoạn đức Phật cho chúng ta biết về sự quan trọng của
bộ kinh này, ngài đưa ra việc bố thí tài nhiều đến đầy cả
mặt đất, người làm được như thế dựa theo thế gian ngài nói
người đó có phước đức nhiều, bởi vì tiền tài tuy nhiều nhưng
tính đếm được và cho dù có nhiều đến đâu mà đem ra tiêu xài
thì theo thời gian rồi cũng sẽ hết, còn bố thí pháp người
tụng kinh hoặc giảng nói cho người khác nghe tức là đem chánh
pháp ra chia cho nhau xài mà pháp thì đã có từ khi trái đất
này có mặt nên nói từ vô lượng kiếp cho đến nay vẫn còn hoài
mà không bao giờ hết. Chữ vô lượng kiếp theo giáo lý của đạo
Phật không phải là chỉ cho số kiếp người luân hồi có kiếp
trước kiếp sau mà là nói về Phật tánh là bản thể chung cùng
từ vô thỷ vô chung, cho nên sau khi giác ngộ đức Phật ngài nói: "
Chư lậu dỉ tận, phạm hạnh dỉ lập, sở tác dỉ biện, bất thọ
hậu hữu. " dịch rằng: " mọi phiền não đã hết, đức hạnh thanh
tịnh đã lập, việc làm đánh thức mọi người đã xong, không còn
sanh thân sau nửa. " Cho nên theo như trong kinh gọi việc bố thí
tài là phước hữu lậu, phước này rất ít vì phước này do ai
ban ? việc bố thí tài là người tin và tu theo thần giáo, tin
có đấng bề trên giám sát mọi hành động qua thân, khẩu, ý của
mình, người cho ra thì mong được đền đáp trả lại, dù ở kiếp
sau...không có qui luật nào làm công bây giờ rồi đến kiếp sau
mới lãnh lương, không có vấn đề đi vay nợ rồi bảo kiếp sau sẽ
trả, thượng đế hay thần thánh nếu có thì chẵng ai rãnh rỗi
để làm những việc phi lý và nhỏ nhen này...
Trở
lại lịch sử ngài Cấp-cô-độc khi xưa dùng vàng trải trên mặt
đất để mua lại khu vườn của Thái tử Kỳ-đà mà cúng dường cho
Phật. Đức Phật gọi người như thế là người có phước đức nhiều,
phước đức ở đây khác với như đã nói ở trên có nghĩa là không
phải ông Cấp-cô-độc bỏ tiền ra mua phước mà vì từ trước đến
giờ ông sống trong tư tưởng thường kiến của ngoại đạo tin rằng
có đấng cứu rỗi và thân này sau khi tan rã còn lại một linh
hồn tồn tại để đi thọ sanh, nay nhờ đủ duyên ông nghe được chánh pháp, đến với Phật pháp...
cũng giống như con Rùa mù 3k năm mới trồi lên mặt nước một
lần và gặp phải bọng gỗ trôi. Người có duyên đến với Phật
pháp, tin sâu vào chân lý mới thật sự là người có phước, bởi vì những cái mình biết là đều từ những cái mà tất cả các chư Phật đã biết qua kinh nghiệm rồi chỉ bày lại. Cho nên phước hữu lậu "
chính là không phải thật phước đức " nên Phật nói phước đức
nhiều, mà nhiều thì bao nhiêu đủ để gọi là nhiều ? Do vậy để
hiểu chữ Phước theo giáo lý của đạo Phật thì người đệ tử
chỉ cần tụng bài kệ trong kinh này chừng 4 câu thôi là phước đức của người này so với người bố thí tài để mua phước trội hơn gấp bội phần. Cho nên các chư Phật vì sống trong chân lý nên nói là do nơi kinh này mà ra.
Dựa theo câu nói này mà có câu hỏi rằng :
- Phật có trước hay pháp có trước ?
Trước
khi đi sâu vào đề tài này chúng ta nên biết ý nghĩa của chữ
Phật là gì ? Pháp là gì ? thì mình mới biết cái nào có
trước . Thì theo ý nghĩa của chữ Pháp thì TQ đã chia sẻ qua
rồi, bây giờ xin nhắc lại, Pháp là tên gọi cho một sự vật nào
đó dù là hữu hình hay vô hình, có tên để biết phân biệt cái
này với cái kia để mọi người nương theo đó mà lý giải, nhưng
tánh của các pháp thì luôn tồn tại và không thay đổi. Còn
Phật tức là giác, nên nhớ Phật không phải là người hay tượng
cốt mà là trạng thái vui sướng trong an lạc của một người
nhận thức được chân lý hoàn toàn rồi hướng dẩn giúp đở mọi
người cũng hiểu biết giống như mình. Còn Pháp có tức là do
duyên sanh, nó không thể tự nó sanh ra nó được, nếu thượng đế
sanh ra các pháp thì...ai sanh ra thượng đế ? mà tánh của các
pháp là tồn tại không thay đổi, mà không thay đổi có nghĩa là
bất sanh bất diệt mà bất sanh bất diệt có phải là hư không ?
là bầu trời là Nhưlai không ? mà Phật tức là giác mà giác
đồng nghĩa với Phật tánh , mà Phật tánh thuộc về vô vi pháp
cũng là cái trở về với vũ trụ hư không. Ngày mình giác ngộ
hay gọi là thành Phật là ngày mình nhìn lại chính mình, mình
là một pháp thanh tịnh không thay đổi, mình trở về căn nhà củ
của mình là bầu trời là vũ trụ hư không. Cho nên theo nghĩa
lý đó mình phải hiểu, trong Pháp có Phật, trong Phật có Pháp
cả 2 cùng là 1, một này mà sanh ra tất cả rồi tất cả trở về
với cái một...nhưng nên nhớ : tuy nói 1 nhưng trong đó hoàn
toàn trống rổng, không có một vật, cho nên cuối câu chúng ta
nghe ngài nói : " Phật pháp nói đó chính chẵng phải là Phật
pháp " ngài phủ nhận việc này vì pháp không có của riêng ai
cho nên nói Tu thật ra chẵng có Tu gì cả và khi nói đến chứng
đắc lại là cái càng không có thể...vì đó là Tánh Không của vạn pháp.
No comments:
Post a Comment