CHƯƠNG 2 PHẦN NỘI DUNG < đ >
Ông Tu-Bồ-Đề bạch cùng đức Phật
rằng: "Bạch đức Thế-Tôn! Như có chúng-sanh nào được nghe những câu trong
bài giảng- giải như vậy, mà sanh lòng tin là thiệt chăng?"
Đức Phật bảo ông
Tu-Bồ-Đề: "Ông chớ nói lời ấy! Sau khi đức Như-Lai diệt-độ, năm trăm
năm sau, có người trì-giới, tu phước, có thể sanh lòng tin nơi những
câu trong bài nầy mà cho đó là thiệt, thời phải biết rằng người ấy
chẳng phải chỉ vun trồng căn-lành từ nơi một đức Phật, hai đức Phật,
ba, bốn, năm đức Phật, mà người đó đã vun-trồng căn-lành từ nơi
vô-lượng nghìn muôn đức Phật rồi.
Như có ai nghe những
câu trong bài nầy sanh lòng tin trong sạch nhẫn đến chừng trong khoảng
một niệm. Tu-Bồ-Đề! Đức Như-Lai đều thấy, đều biết, những chúng-sanh
đó đặng phước-đức vô-lượng dường ấy. Tại vì sao? Vì những chúng-sanh
đó không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng
thọ-giả, không có tướng pháp, cũng không có tướng phi-pháp. Tại vì
sao? Vì những chúng-sanh đó, nếu trong lòng chấp tướng, thời chính là
chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả.
Nếu chấp tướng pháp,
thời chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh, thọ-giả, và vì nếu chấp
tướng phi-pháp, thời cũng chính là chấp ngã, nhân, chúng-sanh,
thọ-giả, vì thế cho nên, chẳng nên chấp pháp, và cũng chẳng nên chấp
phi-pháp.
Cũng bởi nghĩa đó, Như-Lai thường dạy rằng: "Nầy,
các Tỳ-kheo, các ông phải biết rằng, pháp của Ta nói ra đó, dụ cũng
như thuyền bè, đến pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi-pháp!"
Trước
khi giáo lý của đạo Phật ra đời, hầu hết người dân Ấn-độ
thời đó đều tin có đấng Phạm Thiên, thần thánh và có linh hồn
theo nghiệp để đi thọ sanh. Nay vì duyên cớ này, đức Phật
trước sau như một giải tỏa mọi thắc mắc sau khi chết con người
sẽ đi về đâu ? và rồi chuyện gì sẽ xãy ra sau khi Thế tôn diệt
độ ? do đó mà trưởng lão Tu-bồ-đề quan tâm đến chúng
ta, ngài thưa thỉnh rằng các hàng
đệ tử sau này liệu
họ có sanh lòng tin việc không có thượng đế và linh hồn là
thiệt chăng ? sau câu hỏi đó, đức Phật mới qủa quyết: " này
Tu-bồ-đề, ông chớ nói như vậy, sau khi Như Lai diệt độ, 500 năm
sau, có người trì giới, tu phước có thể sanh lòng tin nơi những
câu nói này mà cho đó là thiệt, thời phải biết rằng người ấy
chẳng phải chỉ vun trồng căn-lành từ nơi một đức Phật, hai đức Phật,
ba, bốn, năm đức Phật, mà người đó đã vun-trồng căn-lành từ nơi
vô-lượng nghìn muôn đức Phật rồi."
Ông
Tu-bồ-đề đang lo nghĩ rồi sau 500 năm bánh xe chánh pháp có
thể SẼ bị dừng lại vì những điều Thế tôn vừa nói ra thật
khó mà có ai tin nổi nếu không ở cạnh ngài. Nhưng mà ông đừng
quan tâm, này Tu-bồ-đề, tương lai là chưa tới nhưng tương lai
chính là sự lập lại của qúa khứ tuy là có khác nhau ở thời
điểm nhưng mùi vị thì giống nhau. Món ăn hôm qua nó thuộc về
qúa khứ rồi vài hôm sau mình ăn lại nó
thuộc về tương lai. Tu-bồ-đề
à ! trong chân lý không có qúa
khứ hay tương lai, cho dù hằng trăm năm sau nếu có người trì
giới, không làm các điều phi pháp, có người tu phước và đến
với Phật pháp là người tin vào chân lý, tin vào những lời
Nhưlai nói thì người đó vun trồng căn lành từ vô lượng nghìn
muôn đức Phật rồi. Chân lý không phải chỉ có hôm nay rồi sẽ
chấm dứt ở 500 năm sau, những ai với lòng tin trong sạch, chỉ
cần nhẫn trong một niệm đó là niệm giác, thì người tin chân
lý không tin vào thần quyền hay có linh hồn thường hằng để đi
thọ sanh, người như thế là người Nhưlai nói có phước đức vô
lượng, bởi vì người đó không còn chấp vào ngã pháp nên cũng
chính là Nhưlai nên nói phước đức vô lượng. Nên nhớ danh từ
phước đức trong đạo Phật là chỉ cho chân lý, người hiểu rõ
chân lý sống trong chân lý tức người đó và Nhưlai là một.
Này
Tu-bồ-đề, người sống sau Nhưlai 500 năm không phải là người vô
phước mà những ai hành không đúng theo lời Nhưlai nói thì họ
là người vô phước.
Này
Tu-bồ-đề, bản chất của Sen là thanh tịnh, nó mọc
lên từ dưới bùn dù bùn đó là sạch hay dơ là chánh hay tà
nó sẽ tự vương lên và cho dù chỉ một lần bông Sen trồi lên
khỏi mặt nước thì nó có thể làm sáng và tươi đẹp cho cả hồ
Sen. Rồi tiếp theo đức Phật nói: pháp của Ta nói ra đó, dụ cũng
như thuyền bè, đến pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi-pháp!"
Tại sao pháp lại phải bỏ ? trong kinh có định nghĩa về chữ
Pháp là " nhậm kỳ tự tánh qủy sanh vật giải " có nghĩa là
tánh của các pháp luôn tồn tại không thay đổi nhưng mỗi một
pháp đều có khả năng ghi nhận riêng về một hiện tượng nên
người ta đặt ra tên gọi riêng cho sự vật đó để mọi người biết
có thể lý giải. Trong pháp đó tự tánh của nó không có chánh
hoặc tà vì khi nói Chánh thì pháp đó không còn là pháp nửa.
Pháp NL ví như chiếc thuyền bè, qua sông rồi bỏ, thuyền bè là
văn tự ngữ ngôn quan trọng là nên hiểu rõ nghĩa lý, hiểu rồi
thì chữ cũng không cần đến, do vậy mà trong kinh nói
phải " y nghĩa bất y ngữ " là vậy.
Trong
Trung bộ kinh đức Phật có thuyết: " này các tỳ kheo, khi ta
dùng hình ảnh chiếc đò, ta muốn nói rằng pháp cũng cần phải
bỏ lại không nên ôm giữ. Kẻ nào dùng đò để vượt qua sông lớn,
bờ bên này đầy phiền não và sợ hải, bờ bên kia là an lạc vui
sướng, sau khi qua sông rồi không nên vác đò lên vai mà đi mặc
dầu chiếc đò đó rất có ích cho việc qua sông nhưng khi đã qua
sông rồi thì nên để đò ở lại
không dùng nửa. Này các tỳ kheo,
khi nghĩ đến hình ảnh
chiếc đò chúng ta phải buông bỏ cả chánh pháp và không chánh
pháp. "
Bởi vì khi nói có Chánh tức còn kẹt ở nhị nguyên,
người bỏ bờ bên này để qua sông đó là vì sự sống nên có mục
tiêu nhưng trạng thái là vô mục tiêu, do đó không có mục đích
đến bởi vì pháp giới là nhất chân. Bè phải bỏ giống như
người đầu bếp giỏi, khi hiểu biết mọi cách thức nấu ăn rồi
thì sách " nữ công gia chánh " khi nấu không cần phải để trước
mặt làm gì và đi đâu ở đâu nấu cũng đều cùng một hương vị
cả.
Tất
cả các pháp có mặt
tạm gọi là pháp là đều do duyên
sanh mà duyên sanh thì không tồn tại nên tất cả sớm muộn rồi
cũng phải ra đi, riêng chỉ có sự nhận thức được chân lý là
cái " Không " bất tử, nên nhớ cái Không này không phải là cái
đối lại với Có mà nó là trạng thái không vật chất, tất cả
pháp trước đó có, giờ đã biến mất chỉ còn lại bản thể tối
thượng nó trở thành " sự hiện diện " trong kinh dùng từ " chân
ngã " cũng là ý này nên nơi đây không có chánh pháp và cũng
không chánh pháp... Trong thế giới Ta-bà này không có gì là
tốt là chánh cũng không có gì xấu gọi là tà, không có cảnh
giới Niết-bàn hay Địa-ngục, không có phân biệt người trí hay
kẻ vô minh và cũng không có ai là phàm nhân ai là thánh nhân
mà
tất cả mọi phân biệt đều do bản ngã tạo ra. Vọng tưởng là
sự chuyễn động không ngừng nghĩ, mọi ham muốn đều nãy sinh ngay
cả Tham-sân-si cũng đều có mặt, lúc mình tỉnh nó cũng có
mặt, lúc ngủ nó cũng có mặt. Khi tỉnh ngủ thì gọi là suy
nghĩ, khi ngủ thì gọi là mơ, cả hai đều phát sanh từ ý tưởng
hay còn gọi là tâm thức. Trong cơn mơ mọi suy nghĩ về ham muốn
và sợ hải đều được tâm thức diển tả qua hình ảnh, thấy rõ
ràng trước mắt, khi thức thì vận dụng ý nghĩ để tưởng tượng
ra hình ảnh. Cả hai hiện tượng này đều gọi là mơ tức không
thật, đó là tất cả những gì bản ngã đã tạo thành nội dung
rồi ghi vào ký ức, nên chấp đó là thật, sẽ là CỦA ta, do
sợ mất, sợ thiếu, sợ không đủ, khi vô thường đến tưởng đó là
do thượng đế lấy đi vì vậy mà có việc cầu xin...do xin không
hiệu qủa nên phải tin có linh hồn tồn tại chuyễn tiếp để thọ
sanh vào kiếp mới, cầu không được xin lại càng không được đó
chính là cái khổ của thế gian, do vì tin có linh hồn nên mới
có cảnh luân hồi trong lục đạo, đó cũng là do bản ngã tưởng tượng
ra. Người mà hiểu được nghĩa lý này là biết bản ngã không
phải là thực tại, nó là chiếc bóng nó là vọng tưởng, nó
tạo ra mọi thứ giả tạo, biết giả thì xả bỏ, người quán
chiếu tự xả bỏ được để ký ức trở thành trống rổng thì đức
Phật nói người đó viễn ly được tứ
tướng tức là vun trồng căn lành và ở bên cạnh các chư Phật
từ vô lượng kiếp là trở về với bổn giác thanh tịnh của chính
mình.
No comments:
Post a Comment