Tuệ Quang xin chào các đạo hữu,

...nếu bạn khóc, tôi sẽ khóc cùng với bạn - nếu bạn không có những gì buồn thì chúng ta bắt đầu kể chuyện tếu - nếu bạn gặp bất hạnh, mà trước mặt bạn là ngỏ cụt của cuối đường, thì tại nơi đó bạn có đủ 1 mảnh đất để tọa thiền...hạnh phúc và chân lý không phải là điểm đến ở cuối đường hay mong cầu về một cõi, mà nó ở ngay trên từng bước của chúng ta đi...vì có khởi sự đi nên mới có đến, vì có sự quyết tâm mong cầu muốn đạt được nên những vọng tưởng của sự tham lam sẽ hiện lên, đó là những muộn phiền khổ đau trong cuộc hành trình đi tìm Phật tánh và chân lý . Nếu bạn không biết trước tôi, thì cho dù tôi có đứng trước mặt bạn, bạn cũng không thể nhận ra...Phật Tánh không phải là cái nỗ lực đi tìm vì nó không phải là một vật hiện hữu đã có sẵn từ trước mà ta đã một lần biết qua....Cái gì không đến cũng không đi ? hãy nhìn lên bầu trời để quán chiếu, nơi mà ta đã có mặt từ đó, vì có sanh nên có tử, vì cái đến chỉ là sự dừng lại tạm thời nên rồi cũng phải ra đi cho dù ta có thích hay không thích...hãy nhìn lên bầu trời, nếu ta tìm kiếm Phật Tánh, Niết Bàn hay Cực-Lạc thì ta sẽ thấy những đám mây phiền não kéo đến, ta sẽ không tìm thấy được những gì ngoài hình tướng của đám mây, ta không thể nào nắm giữ được nó dù là hình ảnh của 1 vị Phật hay 1 vị Bồ-Tát...mây thì có đến có đi, nhưng bầu trời thì không đến cũng không đi...đó là sự rỗng không thanh tịnh và sáng suốt. Có ai thấy được hình ảnh của chư vị Phật hay Bồ-Tát dưới 1 bầu trời không mây chưa ? bầu trời không đến cũng không đi, mà tọa thiền thì không đi nhưng tất cả vạn thể của vũ trụ đều sẽ đến. Mô Phật

Tuệ Quang



Wednesday, June 18, 2014

KINH KIM CANG BÁTNHÃ BALAMẬT

CHƯƠNG 2   PHẦN NỘI DUNG < b >

Sau mỗi đoạn kinh chúng ta nên đọc đi đọc lại nhiều lần, để lắng nghe mật ý của Nhưlai phát ra từ hư không, chân lý  không ngụ ý nói riêng cho ai, bởi vì nếu đức Phật không nói thì sự vô thường của các pháp chúng vẫn thế và việc Sanh, lão, bệnh, tử,  không phải chỉ khi đức Phật nói ra con người mới có bệnh...
" Bấy giờ, ông Trưởng-Lão Tu-Bồ-Đề, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch áo bên vai hữu, gối bên hữu quỳ sát đất, cung kính chắp tay, mà bạch cùng đức Phật rằng:
"Hi-hữu thay, đức Thế-Tôn! Đức Như-Lai khéo hay hộ-niệm các vị Bồ-tát, và khéo hay phó-chúc cho các vị Bồ-tát!
Bạch đức Thế-Tôn! Trang thiện-nam, người thiện-nữ, phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời phải trụ tâm như thế nào, nên hàng-phục tâm mình như thế nào?"
Đức Phật dạy: "Hay thay! Hay thay! Nầy Tu-Bồ-Đề! Đúng như lời của ông vừa nói, đức Như-Lai khéo hay hộ-niệm các vị Bồ-tát, và khéo hay phó-chúc cho các vị Bồ-tát.
"Nay ông nên lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói. Trang thiện-nam, người thiện-nữ, phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, phải trụ tâm như thế nầy, phải hàng-phục tâm mình như thế nầy"...
"Vâng, bạch đức Thế-Tôn! Con xin vui thích muốn nghe."
Đức Phật bảo ngài Tu-Bồ-Đề: "Các vị đại Bồ-tát phải hàng-phục tâm mình như thế này: bao nhiêu những loài chúng-sanh, hoặc là loài noãn-sanh, hoặc loài thai-sanh, hoặc loài thấp-sanh, hoặc loài hóa-sanh, hoặc loài có hình-sắc, hoặc loài không-hình-sắc, hoặc loài có-tư-tưởng, hoặc loài không-tư-tưởng, hoặc loài chẳng-phải-có-tư-tưởng, mà cũng chẳng-phải-không-tư-tưởng, thời Ta đều làm cho được diệt-độ, và đưa tất cả vào nơi vô-dư niết-bàn. Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên chúng-sanh như thế, mà thiệt không có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả. Tại sao vậy? Này, Tu-Bồ-Đề! Nếu vị Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời chẳng phải là Bồ-tát.
Tu-Bồ-Đề! Lại nữa, vị Bồ-tát, đúng nơi pháp, phải nên không- có-chỗ trụ-trước mà làm việc bố-thí. Nghĩa là không trụ-trước nơi hình sắc mà bố-thí, không trụ-trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà bố-thí.
Này, Tu-Bồ-Đề! Vị Bồ-tát phải nên bố-thí như thế, chẳng trụ-trước nơi tướng. Tại vì sao? Vì nếu vị Bồ-tát, không trụ-trước nơi tướng mà bố-thí, thời phước-đức nhiều không thể suy lường.
Tu-Bồ-Đề! Ý của ông nghĩ sao? Có thể suy-lường được cõi hư-không ở phương đông chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn, không thể suy-lường được."
"Tu-Bồ-Đề! Có thể suy-lường được cõi hư-không ở phương nam, tây, bắc, cõi hư-không ở bốn hướng cạnh, và cõi hư-không ở trên, dưới, chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn! Không thể suy-lường được."
"Tu-Bồ-Đề! Vị Bồ-tát không trụ-trước nơi tướng mà bố-thí, thời phước-đức cũng lại như thế, không thể suy-lường được.
Tu-Bồ-Đề! Vị Bồ-tát chỉ phải nên đúng như lời Ta đã dạy đó mà trụ.''...
Lúc nãy ngài Anan quan sát đức Phật, đó gọi là Năng quán, là dùng hình tướng tứ oai nghi qua hành động từ tốn không vội vã của Phật để hướng đẩn mọi phải chú tâm về hành động và việc làm của mình qua Thân, Khẩu, Ý có điều chi lầm lổi hay không ? rồi bây giờ ngài quan sát đến trưởng lão Tu-bồ-đề gọi đó là Sở quán, là đối tượng để nhận xét và quán chiếu, Năng quán và Sở quán lúc nào cũng đi đôi bởi vì có người hỏi, nên phải có người trả lời. Điều này cho chúng ta thấy, khi một vỡ kịch muốn hoàn hảo thì mọi sự việc phải ăn khớp nên cần phải có sự chuẫn bị trước. Ông Tu-bồ-đề đóng vai người đặt câu hỏi còn đức Phật là người giải đáp mọi nghi tình, như thế mới gọi là Kinh. Trong kinh Phật chúng ta thường hay thấy lúc nào cũng có người đứng ra thưa thỉnh để đức Phật giải thích cho toàn thể hải hội đều hiểu, những câu hỏi mà các vị Bồ-tát thưa thỉnh đó là những thắc mắc chung của đại chúng, giống như người lần lượt cầm tờ giấy đọc lên vậy thôi.
Chúng ta nghĩ như thế nào ? khi một vị đã trở thành Bồ-tát tức là đồng nghĩa với chữ Phật, vậy mà trước hải hội lại hỏi phải trụ tâm và hàng phục tâm như thế nào sao ? vã lại chúng ta vừa đọc qua, ông Tu-bồ-đề thưa Phật: ông dùng từ:  trang thiện nam, người thiện nữ...đó là những thắc mắc của hàng Phật tử tại gia Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di.
Cho nên trong kinh chúng ta phải hiểu là không có vị Bồ-tát nào ở đây và cũng không có người trả lời mà chủ yếu là dùng thông điệp này để gữi đến hàng đệ tử của ngài vào thời mạt pháp.
Trước khi đưa ra câu hỏi, ông Tu-bồ-đề khởi động: " Hi-hữu thay, đức Thế-Tôn! Đức Như-Lai khéo hay hộ-niệm các vị Bồ-tát, và khéo hay phó-chúc cho các vị Bồ-tát! "
Chúng ta thấy ngài Anan thưa thỉnh qua câu nói của ông Tu-bồ-đề là dùng từ Đức Thế Tôn trước rồi mới nói Đức Như Lai sau, nói như thế để làm chi ? bởi vì nói Đức Thế Tôn là chỉ cho Ứng hóa thân, còn Đức Như Lai là chỉ cho Pháp thân tức là Biến nhứt thiết trí, là bầu trời rỗng không là thể tánh của vạn pháp. Do vậy mình phải hiểu là không có Phật ngồi đó để thuyết pháp.
Hai từ Hộ-niệm ở đây không phải là niệm Phật để trợ giúp đưa hồn đi vãng sanh hay thỉnh Phật Adiđà đạo sư xuống tiếp dẩn, hình thức này rườm rà không cần thiết bởi vì với bổn nguyện Phật Adiđà ngài lúc nào cũng túc trực sẵn ở đó mà không cần phải nhắc nhở hay chờ lập thủ tục. Mà Hộ nghĩa là giúp đở, Niệm là tưởng nhớ. Câu:" khéo hay hộ niệm " nghĩa là: thường hay quan tâm đến và giúp đở...và câu :"  khéo hay phó chúc cho " nghĩa là : hay nhắc nhở công việc làm của các vị Bồ-tát. Cho nên hộ niệm là nhắc nhở đánh thức mọi người lúc còn sống...thì đó là lời tán thán Phật của ông Tu-bồ-đề để mọi người nghe biết mà chuẩn bị. Kế tiếp ông Tu-bồ-đề thưa Phật " Bạch đức Thế-Tôn! Trang thiện-nam, người thiện-nữ, phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời phải trụ tâm như thế nào, nên hàng-phục tâm mình như thế nào?"
Đây là câu hỏi mở đầu, ngài quan tâm và nhắc nhở chúng ta phải phát tâm quay về với chánh pháp tu để thành Phật. Sau khi thưa thỉnh xong, đức Phật nói:" nay ông nên lắng nghe..." tức ngài muốn tất cả mọi người hãy im lặng, ngưng ngay các vọng tưởng đang khởi lên trong lòng. Giá vàng hay đô-la ngoài thị trường hiện đang lên hay xuống, chuyện đó không thành vấn đề, mà hãy im lặng lắng nghe những lời sau đây thì mọi giá cả sẽ không thay đổi. Cụm từ " lắng nghe " là im lặng theo dỏi hơi thở, đã hít vào thời phải thở ra, hít vào là giữ lại thở ra là buông xã, người lúc nào cũng tham nắm giữ những thứ từ bên ngoài mà không chịu buông xã ra, thì người đó sẽ như thế nào ?
Rồi Đức Phật bảo ngài Tu-Bồ-Đề: "Các vị đại Bồ-tát phải hàng-phục tâm mình như thế này: bao nhiêu những loài chúng-sanh, hoặc là loài noãn-sanh, hoặc loài thai-sanh, hoặc loài thấp-sanh, hoặc loài hóa-sanh, hoặc loài có hình-sắc, hoặc loài không-hình-sắc, hoặc loài có-tư-tưởng, hoặc loài không-tư-tưởng, hoặc loài chẳng-phải-có-tư-tưởng, mà cũng chẳng-phải-không-tư-tưởng, thời Ta đều làm cho được diệt-độ, và đưa tất cả vào nơi vô-dư niết-bàn. Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên chúng-sanh như thế, mà thiệt không có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả. Tại sao vậy? Này, Tu-Bồ-Đề! Nếu vị Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời chẳng phải là Bồ-tát. "
Đoạn kinh này rất khó tiếp thu vì qua các lời đối thoại lạ lùng, bởi vì nó vượt ra ngoài các ý nghĩ thông thường. Đức Phật đã cố gắng nói những thứ không thể nói được, bởi vì lời nói của ngài phát suất ra từ hư không mà sau 25 thế kỷ nay mọi pháp hành đều đã đổi thay, nên khó mà nói để bánh xe pháp có thể tiếp tục quay trở lại. Bởi vì đức tin về thượng đế, trời thần và ma qủy theo hình thức xưa bày nay làm đã trở thành gốc rể ăn sâu xuống tận đáy địa ngục.
Trước khi chia sẻ về đoạn kinh này, xin các huynh đệ hãy nhìn với trí tuệ khách quan của mình rồi tư duy qua lời dạy lạ lùng này. Việc hàng phục tâm, có liên quan gì đến các loài Thai sanh, Hóa sanh này đây ? Giáo lý đạo Phật ra đời là nhầm chỉ cho chúng sanh sống làm sao cho hết khổ, ngày mình không còn phiền não khổ đau nửa tức là mình được sung sướng và an lạc nên gọi là: tâm an lý đắc. Còn chuyện sâu bọ, rắn rít, bò cạp thì có liên quan gì đến bệnh khổ hết hay không.
Xin nhắc lại, người quy y Phật thì phải: " vĩnh bất quy y thiên thần qủy vật ", đã quy y Phật rồi thì không nên tin vào giáo điều có Trời, Thần, Ma qủy hay Vật thần...bởi vì những thứ này là do con người tự sanh ra chứ Thượng đế nếu có cũng chẵng dám sanh ra, vã chăng nếu có sanh ra thì sanh cái tốt đẹp hiền đức, chứ sanh ra loài qủy quái thì có ích gì cho chúng sanh ? Phật thuyết, trong thế giới Tabà này chỉ có 2 hạng người, 1 Phật, 2 Ma. Người hiểu rõ chân lý nhận thức được chân lý, làm các điều lành giúp ích cho xã hội, không làm các điều ác, không trái với đạo lý, không cầu nguyện van xin là người ra khỏi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới thì gọi người ấy là Phật vậy thôi, còn hạng người chạy theo ngũ dục lạc, tham đắm vào của cải vật chất, lường gạt, trộm cướp... thì đạo Phật gọi đó là Ma: ma tài, ma sắc, ma danh vọng, ma tham lam tiền của, ma nầy mới đáng sợ chứ ma bóng, ma hiện hình thì việc chi phải sợ...Phật nói Ma là chỉ cho các thứ Ma tâm này. Nên nhớ, trong Lục đạo: trời, người, atula, địa ngục, ngạ qủy và súc sanh, con người đứng hàng thứ 2 sau trời thì tại sao mình phải sợ loài Ngạ qủy ?
Trong câu tuyên ngôn: " Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn " Tuệquang đã dịch ra rằng: " Trong thế giới Ta bà này, tu ngã là tông chỉ riêng của giáo lý nhà Phật "  bởi cái Ngã chính là cái sanh ra mọi ham muốn và khổ đau. Khi mọi ham muốn đều được buông bỏ thì thân tâm mình trở nên nhẹ nhàng trống rỗng và vô trọng lượng. Trống rỗng là cái chân như tuyệt đối, nơi đó tất cả mọi thứ đều được loại bỏ, giống như khi chúng ta lấy hết tất cả đồ đạt, vật dụng trong căn phòng ra thì căn phòng trở nên trống rỗng và rộng lớn hơn, khi 4 bức tường tháo bỏ nốt tức tứ đại tan rã thì căn phòng của mình bây giờ ngang bằng với bầu trời...đó là tiến trình thiền để đạt đến Vô ngã.
Trong kinh các tổ lấy ra 4 tướng theo quan điểm của thần giáo để dạy cho hàng hậu học chúng ta. Đức Phật thường lập đi lập lại về 4 tướng này. Thế thì 4 tướng đó nói lên cái gì ? 4 tướng đó là : Ngã - Nhân - Chúng sanh - Thọ gỉa. là chỉ toàn bộ một con người, chúng cùng là một không thể rời nhau. Để hiểu 4 tướng này theo thần giáo thì chúng ta lấy tờ Khai sanh ra để trước mặt rồi sẽ hiểu.
- Nhân tướng là thân thể con người như thị, chỉ cho loài người gồm có đầu mình và tay chân, được sanh ra và thay đổi theo tiến trình Sanh, Lão, Bệnh, Tử.
-Chúng sanh tướng là khi có đầy đủ đầu mình và tứ chi rồi thì phải phân biệt là giống gì ? Nam hoặc Nữ.
- Ngã tướng tức là tên, họ, là do vọng tưởng tạo ra để cuộc đời được đáp ứng theo nghĩa của nó, đó là gỉa danh không chân thật.
- Thọ gỉa tướng là ngày tháng năm sanh, là thời gian được thọ sanh ra một con người mới, một kiếp mới. Khi tứ đại tan rã thì còn lại linh hồn tồn tại để theo nghiệp đi tái sanh. Cho nên khi một người qua đời, trên bia mộ đều có ghi ngày sanh và ngày tử, đó là chỉ cho hết một kiếp người. Linh hồn này sẽ tiếp tục thọ sanh nửa và cứ như thế không ngừng. Trong lúc chờ lập thủ tục đi thọ sanh thì hồn này phải chờ 49 ngày. Vậy trong thời gian này hồn đó đi đâu và làm gì ?
Theo giáo lý của đạo Phật thì mỗi chúng sanh đều có 3 tướng:
- Hóa thân còn gọi là Ứng hóa thân : thân này thuộc pháp hữu vi do tứ đại tạo thành bao gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. còn gọi là ngũ uẫn thân.
-Báo thân cũng thuộc pháp hữu vi, chỉ cho thân tướng nam hay nữ, đẹp hay xấu, tật nguyền hay lành đặng
-Pháp thân là bản thể chân như, là chủng tử lúc ban đầu, đạo Phật gọi đó là Phật tánh.
Qua bảng so sánh này chúng thấy đạo Phật phủ nhận việc có Bản Ngã và Linh hồn. Vậy khi chết theo giáo lý nhà Phật thì chúng sanh sẽ đi đâu ???  - Phật thọ sanh ở đâu thì mình sanh ra ở đó, đức Thế Tôn thành Như Lai thì chúng sanh cũng Lai Như Như vậy thôi. Bởi vì nếu quan niệm có linh hồn đi thọ sanh thì xin hỏi : Con người và Linh hồn cái nào có trước ? -từ khi chưa có con người thì Linh hồn này từ đâu ra ???
Nếu mọi người đồng ý theo sự nhận định này thì sẽ hiểu toàn bộ ý kinh. Bởi vì như Phật đã nói, khi một người gọi là Bồ Tát, là người đã thật chứng được thấy rõ 5 uẩn là không, tức thân tướng là gỉa hợp,  do bằng lòng với câu " các pháp do duyên sanh..." là người đạt đến vô ngã rồi mà còn tin có bản ngã khác tồn tại để đi thọ sanh là người còn thấy có Ta, còn thấy có sự cãm nhận, thời người ấy chẵng phải là bậc Bồ tát.
Chúng ta thấy đức Phật dạy : muốn hàng phục tâm mình thì phải đưa 10 loại chúng sanh vào Vô-dư Niết bàn, sau đó diệt độ vô lượng vô số chúng sanh như thế mà thiệt ra chẵng có chúng sanh nào được diệt cả. Tại sao vậy ? - bởi vì người tu Thiền cốt là để đánh thức vị Phật trong tâm của mình rồi sau đó đánh thức mọi người dậy cũng giống như mình, chứ đã gọi là tỉnh thức rồi mà còn thấy ma, thấy có linh hồn thì người đó không phải là bậc giác ngộ. Phật hỏi :
- Ma hay linh hồn, chúng thuộc loài hữu hình hay vô hình ? nếu là hữu hình thì tất ai cũng thấy, nếu là vô hình thì các  ông lấy cái gì để thấy cái vô hình ?
Đức Phật dẩn dụ dùng 10 loại chúng sanh đưa ra ở đây là khéo nói để mọi người nương theo đó mà tư duy quán chiếu mà tự hàng phục tâm mình, nghĩa là bắt tâm phải theo cái Chân, đừng đeo theo cái Vọng bên ngoài...
Người tu theo " tiểu thành giáo pháp " là tin sau khi chết cái hồn phải chờ 49 ngày để đi thọ sanh. Trong khoảng thời gian chờ đợi này chúng là cái gì ? Chúng ta thấy trong kinh Phật nói : hoặc loài Noãn sanh tức loài động vật sanh bằng trứng như: chim, rùa, cá sấu...rồi nếu như trong gia đình mình có ai qua đời bất đắc kỳ tử, vài hôm sau tình cờ có con chim đậu trên cây trước nhà hót líu lo, thì cho đó là hồn về cất tiếng kêu oan...hoặc loài Thai sanh tức là sanh ra từ bào thai như: trâu, bò, người, ngựa...linh hồn sẽ đàu thai thành trâu bò như hiểu nghĩa súc sanh trong Lục đạo...hoặc loài Thấp sanh là sanh nơi ẩm ướt như: muỗi, mòng, ếch, nhái...rồi có sách cho rằng kiếp trước của con nhái là thầy tu, vì khi ai cắt đầu nó thì 2 chân trước tự chấp lại..., không hiểu vị tu sĩ này tu nhân gì để kiếp sau trở thành nhái ? hoặc loài Hóa sanh như từ sâu bọ trở thành bướm...bướm này có thể bay vào nhà trong lúc đang có tang chế, thế rồi mọi người cùng nhau qùy lạy do tưởng tượng rằng ông bà còn luyến tiếc bay về...hoặc loài có hình sắc hoặc loài không hình sắc, đây là cập phạm trù đi chung với nhau, loài có hình sắc là chỉ cho con người, còn loài không hình sắc là chỉ cho vong hồn, đây là hiện tượng nhập xác, người bị nhập xác sẽ đổi giọng nói, có khi là tiếng của trẻ thơ hay một cụ già, đôi khi người nam thì nói giọng nữ còn người nữ thì nói giọng nam...người mà tin vào giáo điều có Cô nhập xác Cậu nhập hồn thì người đó không phải là đệ tử Phật. Đức Phật ngài nói: " tất cả chúng sanh đều có Phật tánh " thì tại sao tu theo Phật lại trở thành súc sanh và bằng lòng với 1 trong 12 con giáp nghĩa là thế nào ? Thiện tai, thiện tai...
Rồi đến hoặc loài chẵng phải có tư tưởng mà cũng chẵng phải không tư tưởng, đây là hiện tượng của người nằm mộng thấy có người về báo mộng. Người nằm mộng " chẵng phải có tư tưởng"  muốn thấy như vậy,  nhưng do vì qúa sợ hải trước cảnh sanh ly tử biệt mà có ra việc báo mộng này. Người trong mộng " chẵng phải không tư tưởng " họ có đó nên họ mới nói cho chúng ta nghe những gì đã xãy ra ở qúa khứ, do vì cái lo sợ của mình được kéo dài nên đưa vào giấc ngủ, rồi sau cơn mộng, chấp đó là thật nên tin vào, vì thế mà có ra hiện tượng " nhà ngoại cảm " xuất hiện để lừa bịp chúng sanh...
Dịch vụ " Soi kiếp " là hình thức mê tín, người đi soi kiếp đa số là phần tử kinh doanh làm ăn thất bại, cờ bạc nợ nần chồng chất hay có nhiều khổ đau về gia đạo chồng, vợ hoặc con cái...xem để biết kiếp trước, kiếp sau của mình là gì ? người tin có ma, thế giới về đêm là cõi của chúng nên ma chỉ thấy vào ban đêm thì tại sao lại nhập vào ban ngày ? giã sử: người soi kiếp cho biết kiếp trước ông hoặc bà là người phú gia giàu có vàng, bạc tiền của ăn không hết...thế thì gia tài đó, có trả được hoặc làm gì cho số nợ hiện nay không ? hay là hẹn đợi kiếp sau giàu có trở lại rồi sẽ hoàn trả ? ví dụ như nhà nước ra lệnh, đồng thời đem bảng thông cáo dán trước cửa nhà người soi kiếp rằng : " người bị ma nhập sẽ bị lảnh án10 năm tù trong ngục tối. " thế thì khi ma đến đọc được hàng chữ này chắc chắn sẽ không dám vào mặc dầu ngục tối là cõi của họ. Tín ngưỡng dùng Huyễn để độ Chân mà không chỉ bày được thật nghĩa thì hóa ra tạo thêm nhiều hình thần thánh, tượng cốt tô vẽ thêm màu sắc cho đẹp đẻ hơn để bán đúng giá theo kinh tế thị trường...
Thần Tài, nếu thật sự có giúp cho mình được giàu có thì người đúc ra tượng cũng không dạy gì đem rao bán khuyến mãi 25% OFF. Xã hội gọi là văn minh chẵng qua vì họ không mê tín, không xem ngày giờ cưới gã, hùn hạp làm ăn hay khai trương cất nhà, họ không có: cúng kiến, qùy lạy hay van xin...nhờ vậy mà họ có dư thời giờ để tư duy và sống gần với chân lý hơn. Người suốt ngày vào Chùa hay đền thờ nhìn Huyễn tượng lạy để được thành Chân < Phật > thì Như Lai không cần phải đi thuyết pháp 49 năm.
Thì qua những tư tưởng sau khi chết có cái hồn tồn tại mà có ra hiện tượng này, đạo Phật gọi đó là biên-kiến là cái thấy sai lầm lệch lạc không chân lý. Người tu theo đạo Phật muốn thành Phật thì phải xã bỏ cái Ngã tướng, một niệm dứt bỏ các tư tưởng này đừng để " những loài chúng sanh " đó ghi khắc trong tâm, tức là làm cho chúng biến mất, đó là ý nghĩa của 2 chữ " diệt độ ", diệt độ là biến mất. Bởi vì Vô-dư Niết bàn là pháp vô-vi là cõi thanh tịnh rổng không, không người, không vật, không hồn ma bóng uế...nó là cả một bầu hư không vô hạn. Nếu chúng ta tin rằng có linh hồn đi thọ sanh thì những đám mây là biểu tượng cho hình tướng đó. Khi mây tới, chúng ta có nghĩ là bầu trời biến mất hay không ? rồi khi mây tan, chúng ta có nghĩ là bầu trời sanh trở lại không ? khi mây thay đổi trông hình giống đóa hoa Sen rồi chấp vào có linh ứng, khi mây thay đổi giống hình con Rồng cho đó là điềm lành rồi mang thùng ra giữa trưa trời nắng để chờ hứng nước, khi mây thay đổi thành vị Bồ tát hay một vị Phật liền chấp đó là thị hiện có Phật, Bồ tát quan lâm...thì đó là lúc mình trở về với kiếp sống vô minh, ảo tưởng, hoang đường...do đó tất cả vô số, vô lượng, vô biên chúng sanh như thế mình biết đó là mơ là ảo là gỉa tạo không thật nên phải một niệm vất bỏ tức là tâm mình rổng không giống như căn phòng bây giờ còn lại chỉ 4 bức tường, đó tạm gọi là Vô-dư Niết bàn.
Rồi từ tư tưởng đến hình tướng vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh như : đàn ông đàn bà, loài động vật, chim chóc, cỏ cây đất đá...khi dẩn dắt chúng đi luôn nhớ rằng tất cả chúng sanh đều là gỉa hợp do nương gá nhau mà thành, cho nên mọi phiền não khổ đau của chúng sanh cũng là gỉa bệnh, vì thế khi trị bệnh, biên toa, cho thuốc cũng là gỉa nốt. Bởi vì Niết Bàn không phải là nơi chốn cố định như bờ bên kia, nó thuộc " liễu nhân " tức là do mình tạo ra, chứ không phải kết bè đưa chúng qua sông rồi nói " đây là Niết Bàn ". Do vậy mà người độ và người được độ không có chúng sanh nào là kẻ được diệt độ cả, nghĩa là không có ai biến mất, hình tướng vẫn như vậy nhưng trạng thái thì có khác, có người gọi là Alahán, có người gọi Bồ tát, có người gọi là Phật...nên Phàm, Thánh khác nhau ở một niệm, đó là niệm giác.
Thuốc gỉa dùng để độ họ là như thế nào ?
Hiện nay trên thế giới chứng bệnh béo phì mỗi ngày một gia tăng, thứ nhất là do dinh dưỡng bởi đồ ngọt và chất béo mà không năng vận động hay tập thể dục, thứ đến có thể là do nòi giống gia đình. Để trị bệnh béo phì này được nhanh chóng người ta sáng chế ra loại thuốc uống cho tan mỡ gọi là Slim nghĩa là làm cho gầy ốm hay thon nhỏ lại. Họ quảng cáo chỉ uống trong vòng 2 tuần là xuống khoảng 5kg, ai đang mập nghe qua sao lại không thích. Thật ra không có thuốc nào uống vào làm tan mỡ nhanh như thế cả, nếu đúng như lời quảng cáo thì ai cũng có thể trở thành người mẩu mà không cần phải đến Thẩm mỹ viện hút mỡ để làm gì. Thuốc Slim này ví nó như thuốc gỉa, bởi vì công dụng của thuốc này khi uống vào nó làm cho mình bị no hơi, đầy bụng cảm giác không thấy đói nên chẵng thèm ăn, mà khi trong cơ thể không có thức ăn để nuôi thân thì các cơ quan sẽ tự động lấy những chất dư thừa trong cơ thể ra để tiêu dùng, cho nên chất mỡ là dư nên được xử dụng trước, do vậy mà người mau ốm và xuống cân nhanh.
Chúng ta thử nghĩ xem, nếu 2 tuần mình không ăn chỉ uống nước thôi thì cơ thể mình như thế nào ? ốm, gầy thì có nhưng bị kiệt sức. Cho nên thuốc này có tính cách tâm lý nên gọi là gỉa.
Phật nói : Ho Lao là bệnh KHỔ các ông nên biết. Thuốc lá, café thức khuya dậy sớm là TẬP  do vi trùng " Kock " làm nguyên nhân gây ra chứng bệnh ho các ông nên đoạn, đây là thuốc Ampicillin để DIỆT các ông nên uống, khi vi trùng Kock bị diệt thì khổ vì Lao không còn nên sung sướng và an lạc trở lại và rồi việc hút thuốc, café thức khuya dậy sớm các ông nên chừa đó là ĐẠO. Bệnh Lao không tái diển trở lại nửa đó gọi là Tu... bệnh hết thuốc không cần đến, nên xem như cũng là gỉa luôn.

















No comments:

Post a Comment