Bây giờ chúng ta bắt đầu đi vào kinh, mọi người đã sẵn sàng chưa ?
Đây
là bộ kinh đức Phật nói về Tánh Không, sau khi chết mình sẽ
đi về đâu ? linh hồn có hay không ? thật sự có cõi để sanh về
hay không ? có cần cúng vong, rước linh, lập chùa, đúc tượng để
tôn thờ hay không ?
Toàn
bộ kinh này đức Phật thuyết đều dựa trên Tứ cú kệ tức là
cách nói: Có-Không- Vừa có lại vừa không-Chẵng có chẵng không.
Thí dụ như câu: Bát nhã
Balamật-chẵng phải Bát nhã Balamật-mà gọi là Bát nhã
Balamật.
Đây là kệ 3 câu trong Tứ cú :
- Câu đầu nói : Bát nhã Balamật...là đức Phật nói Có để mọi người có khái niệm
-Câu giữa : Chẵng phải Bát nhã Balamật...đức Phật nói Không là để phá cái chấp Có
-Câu
cuối : mà gọi là Bát nhã Balamật...tức là nói Có để mọi
người biết mà lý giải, cái đó chỉ là giả danh đặc cho có tên
vậy thôi, không phải cái thật tuyệt đối.
Cho
nên toàn
bộ kinh này, khi hiểu thì phải " y nghĩa bất y ngữ ", nếu
chấp trên văn tự thì không bao giờ hiểu được mật ý của Nhưlai.
Đây là bộ kinh phá mê khai ngộ, trong toàn bộ kinh đức Phật
dạy người đệ tử không được mê tín, không tin vào thần thánh,
thượng đế hay ma qủy, bởi vì trước khi quy y Phật, người đệ tử
phải " Vĩnh bất quy y thiên thần qủy vật " cho nên người tu theo
Phật thì không được: Cúng-lạy và Cầu. Tất cả các pháp có
mặt là đều do duyên sanh, chúng đến như thế và theo duyên nên ra
đi như thế mà không một ai có quyền bắt chúng phải như thế.
Bộ
kinh Kim Cang này có rất nhiều người dịch từ tiếng Hán sang
tiếng
Việt dựa theo nguyên bản của ngài Cưu-ma-la-thập. Tuệquang xin
chọn bài dịch của cố đại lão hòa thượng Thích-trí-Tịnh để
chia sẻ cùng với các huynh đệ về đề tài này.
Tựa đề: Kim Cang Bátnhã, Balamật kinh.
Kim
là thể rắn, chỉ cho kim loại. Cang là phát âm từ chữ Cương có
nghĩa là cứng và đồng thời cũng có nghĩa là sợi dây cương
dùng để hướng dẩn ngựa đi theo như ý muốn. Có nhiều người
dịch Kim Cang là loại thép cứng không gẫy, có khả năng cắt phá
được mọi thứ, có người dịch là kinh Kim Cương là bộ kinh có
giá trị và qúy báu nhất. Vì kinh này là kinh đức Phật muốn
nhắc
nhở lại về chân giáo nguyên thủy của Phật gia để hàng hậu
học có thể hành trì, đốt đèn mồi đuốc làm cho cổ xe chánh
pháp được tiếp tục lăng mà không để lại dấu vết. Do đó để
dựa theo nội dung của kinh Tuệquang xin tạm dịch theo ý riêng
của mình là theo câu : " tâm vượn ý mã " thì kinh Kim Cang có
nghĩa là sợi dây cương rắn chắc dùng để hướng dẩn con ngựa
trong tâm ý của mình đi cho đúng đường về đúng chốn. Còn nếu
như Kim Cang có nghĩa là thép cứng thì dù có cứng đến đâu mà
muốn bén thì phải rèn và mài vào đá, cho nên đá là thứ có
thể làm cho thép bị hao mòn, còn Kim Cương là vật qúy báu vào
thời hiện đại, ai có tiền thì mua được.
Bát
nhã là tiếng Bali, tiếng Hán dịch là tŕi tuệ, nhiều người
ghép tiếng Hán và tiếng Bali chung lại với nhau rồi cho ra tên
gọi là: Trí tuệ Bát nhã là chỉ cho người đến được bờ bên
kia. Nếu mình lấy cùng nghĩa trí tuệ của người Ấn-độ là
Bátnhã rồi nhập vào trí tuệ của người Trung hoa thì bờ bên
kia và bờ bên này đều giống nhau, đó là bờ mê. Trí tuệ là
cái rốt ráo là sự vô phân biệt, nơi đó không có ranh giới giữa
2 bờ. Không phải chỉ có Ấn-độ mới có Bát nhã và chỉ nơi đó
mới có người tu thành Phật, mà cũng không phải ở Trung hoa
mới là người có trí tuệ và nơi đó mới có Phật ra đời...cho
nên dù có lai ghép nhiều văn tự vào thì nghĩa trí tuệ vẫn
không thay đổi, ánh sáng mặt trời soi rọi khắp 10 phương, không
có phân biệt bờ này hay bờ bên kia, khi ánh sáng đến thì bóng
tối phải rút lui, khi trí tuệ hiểu rõ được chân lý và sống
với chân lý thì tại nơi mình đứng, đó gọi là bờ giải thoát,
là ra khỏi sự tranh luận đúng sai, người đó trong kinh gọi là
người được " vô tranh tam muội ". Do vì có qúa nhiều vị Phật ra đời mà không
rõ nguồn gốc nên ngài Ngô-thừa-Ân gọi cách tu hiện nay là:
Tiểu thành giáo pháp.
Balamật
tiếng Hán dịch là đáo bỉ ngạn hay bờ bên kia. Dựa theo kinh
này mình nên hiểu đó là Tánh Không, vì đó là bản thể của vũ
trụ. Đức Phật chưa hề thuyết giáo về cõi bên kia, ngài chỉ
dạy chúng ta sống làm sao cho hết khổ để có sự an lạc cho cả
hai thân và tâm. Bởi vì cõi bên kia hay bờ bên kia là chỉ cho sự
chứng đắc, người mà còn thấy có chứng đắc là người còn
thấy có Nhân tướng và Ngã tướng. Do vậy mà đức Phật qủa
quyết : không hề có chứng đắc.
Bây giờ chúng ta bắt đầu đi vào
phần nội dung của kinh.
" Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, đức
Phật ở trong vườn Kỳ-Thọ, Cấp-Cô-Độc, tại nước Xá-Vệ, cùng với chúng đại
Tỳ-kheo, một nghìn hai trăm năm mươi người câu-hội.
Lúc đó, gần đến giờ ăn, đức Thế-Tôn đắp y, cầm bát, vào thành lớn Xá-Vệ mà khất thực.
Trong thành ấy, đức
Phật theo thứ tự, ghé từng nhà, khất-thực xong trở về Tịnh-Xá, dùng
cơm, rồi cất y-bát, sau khi rửa chân xong, đức Phật trải tòa mà ngồi."
Đây
là phần nhập đề là lời tự thuật của ngài Anan trước hải
hội. Câu: " Ta nghe như vầy..." tại sao ngài Anan không nói một
cách mạnh dạng hơn là: " Như Thế Tôn ngôn..." nghĩa là: " Như
Phật đã nói..." tại sao không thể là câu này ?
Đó
là lý do tại sao kinh này nói về Tánh Không. Như chúng ta biết
khi nói đến đạo Phật là người ta nghĩ ngay đến pháp môn
Thiền, mà thiền thì không có sách vỡ hay văn tự, nên trong
truyện Tây-du ngài Ngô-thừa-Ân gọi đó là : vô tự chân kinh. Đó
là cái bí truyền từ tâm của
vị thầy đến đệ tử mà thông thường thế gian gọi là: truyền
tâm ấn. Ngài Anan là người ở bên cạnh Phật gần 40 năm như bóng
với hình, ngài thuật lại trước tứ chúng trong thời kỳ kết
tập kinh điển. Ngài nói: " Ta nghe như vầy..." đó là cái nghe
của ngài Anan, ngài không thể nói như ra lệnh: " như Phật đã
nói..." bởi vì lúc đó, như chúng ta biết ngài Anan chưa được
gọi là bậc Alahán nên ngài làm sao có thể nói được những
điều Phật đã nói, những vì tôi nghe như vầy, tôi chỉ lập lại
những gì tôi đã nghe là thế đó. Còn những điều Phật nói, ngụ
ý của Phật là gì làm sao tôi có thể hiểu được, bởi vì khi
Phật nói chỉ có một mình ngài biết ngài muốn dạy
điều gì thôi. Cho nên ngay khi vào kinh, chúng ta phải hiểu là
không có người thuyết giáo trong kinh này, giống y như phần
Tuệquang ví dụ là mình đi xem phim. Những gì diễn viên chính
trong phim họ không có tự nói ra mà lập lại lời của đạo diễn
viết ra.
Tại
sao ngài Anan phải kể chi tiếc từ lúc đắp y, rồi đi vào
thành, ghé từng nhà, trở về thọ trai, rửa bát, rửa chân xong
rồi trải tọa cụ ngồi...chúng ta có nghĩ nên kể từng chi tiếc
như vậy không ? đây là cách diễn tả về tánh nhận xét và quan
sát của Thiền tông. Trong lúc thiền cũng như trong lúc tụng
kinh, chúng ta phải quan sát và nhận xét từng lời kinh, tư duy
từng bước
giống như đi kinh hành, như thế thì mới có kết qủa. Một cử
chỉ từ tốn không vội vã sẽ giúp mình cảm nhận dể dàng hơn.
Đó cũng là cách quán tưởng, còn bằng không thì chỉ là hình
thức thi ngồi, ngồi lâu không phải là có kết qủa tốt mà nó
có thể xem như mình đang ngồi " cắn bút " trong lúc làm bài
thi.
Mục
đích của ngài Anan là muốn chỉ bày cho chúng ta thấy cái
phẩm hạnh tứ oai nghi của một vị Phật, nhằm muốn nhắc nhở
mọi người, mọi hành động phải biết tự chủ và giữ đúng chánh
niệm. Thứ hai ngài Anan muốn tăng sự chú ý để mọi người tư
duy thêm về 2 chữ Tịnh-xá. Thông thường hiện nay ý nghĩa của 2
chữ Tịnh-xá là chổ ở dành riêng cho khách thập phương từ xa
tới hoặc là chổ ngủ của các Tăng Ni. Hai chữ Tịnh-xá trong
đạo Phật rất rõ nghĩa.
Tịnh
có nghĩa là yên lặng không một tiếng động...Xá không phải là
nhà trọ mà là sự buông thả. Tịnh xá có nghĩa là Phật đường
là nơi thanh tịnh cho người tu Thiền, một vị Phật trong tâm mình
có thể được đánh thức bất kỳ lúc nào. Khi tịnh là lúc mình
xã bỏ tất cả mọi thứ từ cảnh trần, mọi thứ dục lạc, ái
nhiễm đã trở thành vô nghĩa để có khả năng trở thành một vị
Phật. Ngài " Hiếp Tôn Giã " ngồi thiền trong Tịnh xá suốt 3
ngày, 3 đêm, ngài am hiểu thông
suốt toàn bộ 3 tàng kinh và trở thành tổ thứ 10 bên Ấn-độ.
Do vậy chỉ có sự im lặng, là nơi không có cái thấy và cái
nghe thì đó là lúc một vị Phật ra đời.
< còn tiếp >
No comments:
Post a Comment