Tuệ Quang xin chào các đạo hữu,

...nếu bạn khóc, tôi sẽ khóc cùng với bạn - nếu bạn không có những gì buồn thì chúng ta bắt đầu kể chuyện tếu - nếu bạn gặp bất hạnh, mà trước mặt bạn là ngỏ cụt của cuối đường, thì tại nơi đó bạn có đủ 1 mảnh đất để tọa thiền...hạnh phúc và chân lý không phải là điểm đến ở cuối đường hay mong cầu về một cõi, mà nó ở ngay trên từng bước của chúng ta đi...vì có khởi sự đi nên mới có đến, vì có sự quyết tâm mong cầu muốn đạt được nên những vọng tưởng của sự tham lam sẽ hiện lên, đó là những muộn phiền khổ đau trong cuộc hành trình đi tìm Phật tánh và chân lý . Nếu bạn không biết trước tôi, thì cho dù tôi có đứng trước mặt bạn, bạn cũng không thể nhận ra...Phật Tánh không phải là cái nỗ lực đi tìm vì nó không phải là một vật hiện hữu đã có sẵn từ trước mà ta đã một lần biết qua....Cái gì không đến cũng không đi ? hãy nhìn lên bầu trời để quán chiếu, nơi mà ta đã có mặt từ đó, vì có sanh nên có tử, vì cái đến chỉ là sự dừng lại tạm thời nên rồi cũng phải ra đi cho dù ta có thích hay không thích...hãy nhìn lên bầu trời, nếu ta tìm kiếm Phật Tánh, Niết Bàn hay Cực-Lạc thì ta sẽ thấy những đám mây phiền não kéo đến, ta sẽ không tìm thấy được những gì ngoài hình tướng của đám mây, ta không thể nào nắm giữ được nó dù là hình ảnh của 1 vị Phật hay 1 vị Bồ-Tát...mây thì có đến có đi, nhưng bầu trời thì không đến cũng không đi...đó là sự rỗng không thanh tịnh và sáng suốt. Có ai thấy được hình ảnh của chư vị Phật hay Bồ-Tát dưới 1 bầu trời không mây chưa ? bầu trời không đến cũng không đi, mà tọa thiền thì không đi nhưng tất cả vạn thể của vũ trụ đều sẽ đến. Mô Phật

Tuệ Quang



Wednesday, July 16, 2014

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BALA MẬT

CHƯƠNG 2         PHẦN NỘI DUNG    < L >


Bấy giờ, ông Tu-Bồ-Đề bạch với đức Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Trang thiện-nam, người thiện-nữ, phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, phải trụ-tâm như thế nào? Phải hàng-phục tâm mình như thế nào?”.
Đức Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: “Trang thiện-nam, người thiện-nữ, phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác đó, thời phải sanh-tâm như vầy: Ta phải diệt-độ tất cả chúng-sanh, diệt-độ tất cả chúng-sanh xong, mà không có một chúng-sanh nào thiệt diệt-độ.
Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu Bồ-tát mà còn có tướng ngã; tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả thời chính là chẳng phải Bồ-tát.
Vì cớ sao? Nầy Tu-Bồ-Đề! Vì thiệt ra không có pháp chi phát-tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cả?
Nầy Tu-Bồ-Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? – Ở nơi chỗ đức Phật Nhiên-Đăng thì Như Lai có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác chăng?”
“Bạch đức Thế-Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa-lý của lời Phật dạy, thời ở nơi đức Phật Nhiên-Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cả.”
Đức Phật dạy rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-Bồ-Đề! Thiệt không có pháp chi đức Như-Lai đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như-Lai được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời đức Phật Nhiên-Đăng bèn chẳng thọ-ký cho Ta rằng: “Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni.”
Bởi thiệt không có pháp chi để được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, cho nên đức Phật Nhiên-Đăng đã thọ ký cho Ta, mà nói lời nầy:
“Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni.” Bởi vì sao? Vì Như-Lai đó chính là nghĩa các pháp như-như.
Nếu có người nói rằng: Đức Như-Lai được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Này Tu-Bồ-Đề! Thiệt ra không có pháp chi mà đức Phật được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Này Tu-Bồ-Đề! Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác của đức Như-Lai chứng được, trong đó không thiệt, không hư, vì thế đức Như-Lai nói, tất cả pháp đều là Phật-pháp.

Này Tu-Bồ-Đề! Tất-cả pháp mà đức Phật nói đó, chính chẳng phải tất-cả pháp, cho nên gọi là tất-cả pháp.

Nơi đoạn này qua câu hỏi đáp của đức Phật và ông Tu-bồ-đề về vấn đề người phát tâm cầu thành Phật thì phải Trụ và Hàng phục tâm như thế nào? đây là lần thứ hai ông Tu-bồ-đề hỏi Phật về việc làm sao để " trụ tâm "  và " hàng phục tâm ", chúng ta thấy có vấn đề gì xãy ra không ? lần thứ nhất cũng câu hỏi này : " phải trụ tâm như thế nào ? "  ý ông muốn hỏi làm sao cho tâm được đứng yên < tức là Trụ > đừng chạy theo vọng tưởng ? thì đức Phật trả lời : " vị Bồ-tát đúng nơi pháp, phải nên không có chổ trụ trước..."  không trụ trước nơi Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp..v..v. có nghĩa là người hỏi muốn biết Trụ như thế nào thì Phật nói : " đúng nơi pháp "  có nghĩa rằng không có vấn đề Trụ mà phải hiểu là nên Vô trụ, rồi kế tiếp Phật đưa ra 6 Trần tức là "sở quán" và nói đừng dính mắc vào đó thì phước đức không thể suy lường. Bởi vì khi 6 căn không còn bị đam mê ái nhiễm nửa thì tâm người đó thanh tịnh, mà như trong kinh Đại-bát Niết-bàn Phật có thuyết : " Dục thủ nhất thừa bất ố lục trần, lục trần bất ố hồn đồng chánh giác " có nghĩa là khi 6 căn giao thoa với 6 trần mà tâm không chạy theo cảnh thì gọi là giác rồi chứ trụ vào đâu nửa, giống như khi nói Ác tức là việc làm trái với đạo lý, nghịch lại điều thiện. Khi tất cả mọi điều làm không sai đạo lý nửa thì chính đó là thiện rồi...cho nên Bồ-tát còn trụ là còn dính mắc, do vậy mà đức Phật dạy phải nên Vô trụ là như thế. Cũng vì người muốn trụ, kẻ không cho nên câu hỏi này được lập lại, mà khi lập lại tức phải nói cách khác và nghĩa lý đương nhiên phải rõ ràng hơn.
Phát tâm vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác nghĩa là cầu thành Phật, Phật chẵng qua là sự giác ngộ là một trạng thái rổng không, không còn mọi mơ tưởng ham muốn trong lòng, ham muốn là mục tiêu là hướng mắt để nhìn, cầu là mục đích là chổ mình đi tới, mà mọi  ham muốn đều là phù phiếm giả tạo, khi những ý niệm ham muốn tìm mục đích không còn thì điểm đến là nơi mình đang đứng. Vũ trụ là một vòng tròn giác ngộ, đi là điểm khởi đầu, có đi ắt phải có đến, người tinh tấn tiếp tục đi hoài thì điểm khởi đầu cũng chính là điểm đến, do vậy mà đức Phật nói không có pháp chi gọi là phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác cả, Phật đã có sẵn trong tự tâm của mỗi người rồi hãy nhìn sâu vào bên trong bản thể thì sẽ thấy, Phật bao giờ cũng ở sẵn đấy, giống như người mong tìm bằng cấp Tiến-sĩ, khi vượt qua được mọi kỳ thi thử thách thì lúc đó bằng Tiến-sĩ mới có hay có trước từ lâu rồi ?
Đức Phật hỏi ông Tu-bồ-đề ở chổ đức Phật Nhiên-đăng ngài có pháp gì để thành Phật không ? là ý nói lúc còn Thái-tử ngài đốt nhang mồi đèn lễ bái hầu hạ cúng dường các vị Phật Sa-môn nhiều không thể tính đếm, việc làm công đức ấy có gọi là thành Phật không ? ông Tu-bồ-đề liền hiểu ý nên trả lời không có pháp chi mà thành Phật cả.
Việc mồi đèn đốt đuốc của Thái-tử hầu hạ cúng dường các vị Sa-môn là một công đức, dựa theo sách vỡ thì nói đó là tu phước, tức pháp Tiểu thừa mà pháp Tiểu thừa là giáo lý của ngoại đạo nên việc tu Phước, phước tuy có nhiều như số cát sông Hằng thì cũng chưa đủ để gọi là thành Phật do đó mà ngài xác định không có pháp chi để chứng, nếu có thì ngài đã được thọ ký thành Phật lâu rồi không cần tu nửa. Vì thế qua việc làm đó mà Phật Nhiên-đăng khen : đời sau ngài sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, vậy tại đây chúng ta thấy Phật Thích-ca Mâu-ni là tên họ thật của ngài hiện tại hay là danh hiệu mà Phật Nhiên-đăng tặng cho ?  vậy đời sau của ngài có không ? do vậy nói theo sách vỡ thì ngài phải có thêm Trí-Huệ nửa thì mới thành Phật được, nên gọi là Phước-huệ song tu.
Việc thành Phật không phải là trở thành ông gì hay thay đổi hình tướng giống như Nước gặp lạnh đông thành Đá, nước là thể lỏng, đá là thể rắn nhưng bản thể của chúng đều là Ướt. Dựa theo kinh bản thể Ướt này đức Phật nói chính là "pháp như như", Như là tỉnh lặng đối lại với động, động là do duyên sanh do cái này gá dính vào cái kia. Nước có là do nương gá bởi hai thể khí hydro và oxy, nước đá có là do thời tiếc với độ âm cao cả hai đều gọi là động, do động nên có ra sự thay đổi thành một pháp với tên gọi khác.
Nhưlai chính là nghĩa pháp như như, khi tâm hoàn toàn trống rổng tức không có một vật gì để nương gá vào nhau thì gọi "tâm không" nghĩa là tâm không còn động là trở về với bản thể của chính mình nên gọi là Như-như. Vì khi nói thành Phật hay Vô thượng chánh đẳng chánh giác thì vẫn còn trong đối đải của nhị nguyên, còn phân biệt Phật, Phàm, do vậy mà ngài nhấn mạnh nói cho ông Tu-bồ-đề tức là giải thích rõ sâu thêm một lần nửa cho chúng ta hiểu, không có pháp chi được thành Phật cả mà sự chứng đắc của ngài trong đó "không thật, không hư". Hư, Thật là hai danh từ đối đải,  "không thật không hư" nghĩa là vượt ra khỏi nhị nguyên bởi vì tất cả pháp bản thể chúng đều thanh tịnh nên ngài nói  "đều là phật pháp". Nhân là chủng tử phật có nghĩa phật đã có sẵn trong nhân, khi cái nhân vô nhân của mọi nhân không được tìm thấy thì bản ngã không còn, nơi đó là rổng không, trong sáng và tỉnh lặng, nơi đó không có gì cả...chỉ có Thiền.

No comments:

Post a Comment