KINH KIM CANG BÁT NHÃ BALA MẬT
CHƯƠNG 2 PHẦN NỘI DUNG < d >
Tu-Bồ-Đề! Ý của ông nghĩ sao? Có thể do nơi thân tướng mà thấy Như-Lai chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn!
Không thể do nơi thân tướng mà thấy được Như-Lai. Bởi vì sao? Vì đức
Như-Lai nói thân-tướng đó chính là chẳng phải thân-tướng."
Đức Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: " Phàm hễ có tướng đều là hư-vọng cả! Nếu nhận thấy các tướng đều là không phải tướng, chính là thấy Như-Lai".
Tiếp theo đức Phật nhắc tới sắc tướng một lần nửa, vậy ngài muốn dạy thêm điều gì đây chăng ?
Tướng
là chỉ cho hình dáng bên ngoài nó chẵng quan trọng gì đến
ngài cả, nó không phải là phẩm hạnh của một vị Phật, bởi vì
Phật nghĩa là giác là trạng thái an lạc nên không có hình
tướng, ông ấy chẵng có gì cả. Còn thấy hình tướng tưởng nhớ
đến tượng cốt rồi qùy lại tức là tự đang hành xác một vị
Phật trong tâm của mình, đó là những người không thể thấy Như
Lai. Mọi pháp hữu vi đều là phù vân tụ tán, đều bị lý vô
thường chi phối, hợp rồi tan mà không bao giờ báo trước, tượng
cốt thánh, thần, giờ trước còn linh khi vô thường đến giờ sau
gọi là miễng... Ngài đã phủ nhận việc chứng đắc thì làm gì
có tướng
Như Lai để tôn thờ, mọi hình tướng đều là pháp hữu vi do vô
thường chi phối nên tướng thay đổi liên tục đều như mộng ảo "
phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng" là vậy . Đây là đoạn kinh
đức Phật phá về sắc tướng, nếu thấy có tướng tức là chấp
có mà không tướng thì lại chấp không, còn chấp tướng nhưng phi
tướng là chấp vào linh hồn tồn tại là tướng có, tức là còn
chấp vào ngã tướng và thọ giả tướng cho nên bồ tát mà còn
tin vào có linh hồn là còn thấy tướng thì không thể gọi là
thấy Như Lai. Như Lai còn gọi là Phật tánh là sự nhận biết về
bầu trời bên trong bản thể, mà tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh. Bạch thế tôn, tại sao chúng sanh đều biết
có Phật tánh mà không thể nhận ra ? - không phải họ không biết
để nhận ra mà họ tự tránh ra do vì ham chơi chạy theo cách
sống cùng với cái Ta của người khác. Khi giác ngộ tức là
nhận biết bầu trời Như Lai trong đó không có cái Ta, không có
linh hồn tồn tại nên mình thoát ra được mọi hình tướng của
chúng sanh không còn bị luân hồi trong 12 con giáp, mình hoàn
toàn được tự do trở về với bản thể của chính mình nơi đó
không có hình tướng không linh hồn.
Như Lai là bầu trời tuyệt đối là cái
bất sanh bất diệt, khi tứ đại tan rã toàn bộ trả về hư không thanh tịnh là căn nhà củ của chính mình.
Chúng
ta thường hay nghe nói về hai chữ Như Lai, Như Lai có nghĩa là:
đến như thế và đi như thế. Ba chữ " đến như thế " có nghĩa là
một người đến mà không theo ý riêng của mình, không có động
lực nào đưa đẩy. Làm sao mình đến mà không theo ý riêng, không
có động lực ? Chúa đến với loài người, Chúa là sứ giả của
thượng đế. Thượng đế là động lực đưa Chúa xuống với nhân
loại, bởi vì
khi nói Đến tất phải có điểm khởi đầu dù bất kỳ ở đâu.
Chúa đến và chết để chịu tội cho loài người, thì đó là ý
riêng, cho nên cái đến như thế là có lý do có mục đích.
Phật
là giác, giác không phải là do theo ý riêng của mình để đến
được bờ bên kia hay tìm đến một nơi chốn nào đó, mà nó là sự
tồn tại từ vô thỷ vô chung, nó đã có sẵn ở cùng khắp mọi
nơi, không nơi đâu mà không có. Sự tồn tại dựa trên hình tướng
gọi là Phật nhưng nó vô hình điều này đến không có
nguyên do không động lực, không một sự ham muốn riêng có tính
cách cá nhân...đó là nói theo nghĩa lý Như Lai đến là như thế.
Có đến ắt phải có đi và đi cũng là đi như thế. Giác ngộ là
một trạng thái rổng không vô trọng lượng, người còn thấy tướng
thì không hề thấy Nhưlai, bởi vì Nhưlai không có hiện diện,
nếu chúng ta nhìn lên bầu trời , mây có đó, nó đến nó đi, đi
rồi lại đến mà không có lý do nào riêng biệt, nó đến và đi
bất kỳ nơi đâu, thiếu nước thì cho mưa mà không phân biệt điạ
điểm và ngày đêm. Cho nên Nhưlai đến như thế và đi như thế mà
không để lại dấu vết hay gốc rể nào để bám víu.
Có huynh đệ hỏi: " làm sao thấy bản ngã của người khác ? "
Đó
chẵng qua là cái Ngã thấy của mình, nếu mình thấy bản ngã
của người khác tất mình phải biết bản ngã của mình như thế
nào rồi. Bản ngã chỉ là cái phóng họa là sự phản chiếu của
chính mình, chẵng ai loại bỏ được bản ngã ngay cả đức Phật
và điều này xưa nay chẵng có ai thành công. Người muốn loại bỏ
được bản ngã chỉ một điều duy nhất là dùng độc dược, cho nên
việc thấy bản ngã của người khác đó là do suy bụng ta ra
bụng người. Đức Phật không nói phải loại bỏ bản ngã, ngài
chỉ nói : " bản ngã không hiện hữu " thế thì làm sao có thể
loại bỏ được cái không hiện hữu ? khi bạn nhìn vào tôi, tôi
nói bạn " không có bản ngã ", bởi vì ngay từ lúc ban đầu bản
ngã tự nó đã không có, người chấp có là kẻ đó lầm, nên nhớ
điều này. Bản ngã chẵng qua chỉ là vọng tưởng, không có thật
nên đức Phật chỉ chúng ta cách nhìn để thấy cái gì gọi là
bản ngã. Khi biết nó là vọng, là giả là không thật, đừng quan
tâm đến thì tự nhiên nó phải rút lui...khi ấy toàn bộ bản
thể hoàn toàn im lặng, người thấy biết được sự im lặng thì
gọi người đó có " vô tranh tam muội " vậy thôi.
Người chấp
vào bản ngã cho là thật nên mới thấy bản ngã của người khác
rồi tạo thành lý tưởng, đó là người đang đeo kính râm, chạy
tìm bắt bóng thì người đó sẽ khổ suốt đời, bởi vì nó không
thật có, có là do mình tạo ra rồi dùng nó để đi tìm cái ngã của người khác, việc làm này có ích gì ?
Phật
dạy : tất cả mọi ý tưởng không thật đều là nguyên nhân gây ra
khổ đau, do có khổ đau nên tâm bất an, vì bất an nên thốt thành
lời. Chỉ có sự im lặng thì nơi đó mới trống rổng, không có thiền nhân thì sao có bản ngã.?
Cuộc đời như thể phù vân,
Vang danh cũng chỉ là ba tiếng cười.
No comments:
Post a Comment