Ngài
đã đi hết một đoạn đường, xế chiều là điểm đến, mặt trời
rựt rỡ cả ngày bây giờ chuẫn bị tắt, tắt không phải chết, là
hết hay không còn nửa mà là sự nghĩ ngơi chuẫn bị cho một
ngày mới trở lại theo chu kỳ. Hoa nhất thiết không phải nở
đúng mùa, đó là chỉ cho sự tự do vô hạn không còn bị ràng
buộc bởi thời gian, việc nở hoa, hoa trắng rơi là biểu tượng
cho sự trong sạch của bản thể, sự hân hoan cúng dường đón chào
người trở về với vũ trụ hư không, nơi đó là nhà của ngài,
quê hương của ngài, nơi đó không có cái chết và sự chết mà là
lễ hội cùng gió cây rì rào tung tăng nhảy múa với vũ điệu "
hoa rừng Sala ".....
Sống
và Chết là hai mối lo sợ tột cùng của thế gian, người sợ
chết thì không thể giải thoát, do vậy mà sau khi đức Phật nhập
diệt trong kinh sách có ghi chép rằng : trong lúc trà tỳ cho
Phật, ngài Ca-Diếp từ xa về đến nơi đảnh lễ Phật xong, đi
nhiễu quanh ba vòng...đức Phật đưa chân ra rồi rút chân vào...Đây
không phải là chuyện hoang đường mà là một phẩm dụ mang ý
nghĩa sống chết của kiếp người. Phật đưa chân ra nghĩa là
Sống, rút chân vào nghĩa là Chết, việc sống chết so với vô
thường nhanh như tíc tắc...nhưng với cùng ý nghĩa của phẩm dụ
nầy nếu viết rằng: đức Phật đưa tay ra rồi rút tay vào thì
xác thật hơn...vì đưa tay ra cũng mang ý là Sống, ngày chúng ta
sanh ra với hai bàn tay trắng, rút tay vào nghĩa là lúc ra đi
cũng trắng hai bàn tay có mất mát chi đâu mà phải sợ, bởi vì
tất cả pháp đều như mộng huyễn, đều thuộc về vũ trụ, sống
còn không nắm được gì thì chết có gì để mang theo ? đó là ý
nghĩa của phẩm dụ nầy.
Phật thuyết sau khi ngài thành đạo, bất kỳ cái gì được sanh
ra đều phải chết đi dù sớm hay muộn, nếu thấy có bắt đầu ắt
phải có kết thúc. Tất cả mọi thứ sanh ra từ nguồn đều phải
trở về cội nguồn của nó. Cuộc sống là khổ đau tạm bợ không
mang ý nghĩa gì cả, hiện tượng chết là vô thường không ai
tránh khỏi, nhưng nếu chúng ta biết cách sống đúng, làm thế
nào để trở thành bất tử thì điều đó mới là thiêng liêng và đáng
tôn kính.
Vậy thì Sống phải làm sao và Chết như thế nào cho an lạc ?
Sống không biết phải sống sao cho vừa lòng người, đến khi chết thì không biết mình sẽ đi về đâu ?
Mình sống mà không biết mình từ đâu đến đây rồi khi chết tìm cõi để đi về
có ích gì ? đó là những ý nghĩ vớ vẫn của người soạn ra kinh điển thần giáo mang đầy tính chất
tiêu cực, người tiêu cực là người mê muội kém trí tuệ nên
thường tin vào thần thánh, thượng đế, người mê thì nhẹ dạ dể
tin, dể bị đầu độc bởi tín ngưỡng tôn giáo. Nơi nào có đền
thờ, chùa chiền hay thánh điện là nơi đó có tu sĩ ra đời để
diển tả cảnh giới vô hình viễn tưởng hoang đường không chân lý mà ngay bản thân
mình chưa một lần biết qua...người tin vào giáo điều đó đức
Phật gọi là Mê, người hành theo giáo điều để được ân sủng gọi
là Tín. Mê tín là người có mắt như mù không thấy đặng chi
cả, giống như người mù ánh sáng đối với họ là mầu đen, nên
dể bị lợi dụng ai nói gì cũng tin mà không cần dẩn chứng.
Khi
chân lý được truyền đạt, người thấy hiểu được sai lầm, sửa đổi
cách sống sao cho đúng thì người ấy có Chánh-kiến là phá
được mê lầm nên gọi là ngộ nhận ra chân lý, người đó thoát ra được khỏi khổ não ưu bi không còn lo sợ sống trong cảnh khổ thân và tâm nữa.
Trong cuộc sống được chia ra làm hai thành phần : tự lực và tha lực.
Tha lực là người tin vào bổn nguyện của ai đó gọi là Phật hay Đấng, tin có người tiếp dẩn, có đi thọ sanh ở kiếp sau,
tin có ma, có linh hồn, có thần thánh, có đấng cứu rỗi...đó
là giáo lý của ngoại đạo thuộc hệ thần giáo, quan tâm nhiều
về thân mạng nên tạo ra hình thức nghi lễ cúng kiến, qùy lạy
và cầu xin mong để được ban thưởng, khi chết được rướt về một
cảnh giới sung sướng nào đó.
Tự
lực là dùng sức lực của riêng mình, tin mình là Phật, dùng
bổn giác là thiện căn sẵn có cộng thêm từ bi và trí tuệ đồng
thời thực hành " Bát chánh đạo ", sống làm sao lìa bỏ được:
tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, luôn giữ giới không phạm thì
có khả năng đi đến cuối đường tự do, nơi đó không có hạnh phúc nào
khác ngoài bản thân mình được nhận ra.
Người
sống nhờ vào tha lực là người sống bằng cái đầu, cái đầu
là phần bên ngoài của bản thể, không tự tin vào bản thân mình,
quên đi cội nguồn chạy theo cách sống và tin cùng cái bản ngã
dối gạt của người khác, luôn luôn lo sợ về cái chết và tìm
đủ mọi cách để kéo dài cuộc sống, nên lúc nào cũng tìm
người bảo vệ, ngay cả sau khi chết...cho nên tiền bạc dục lạc
đối với họ là quan trọng cần phải có để mua phước và mua vé
về thiên đàng hay cực lạc. Tự lực là người sống bằng trái tim
là từ bi của bản thể nó sẽ làm thay đổi tất cả mọi dục
vọng ham muốn đến từ bên ngoài. Trái tim nằm bên trong cơ thể
mà chiều sâu là từ bi, trong chiều sâu không có sóng gió, cái
đầu là bên ngoài nên chịu ảnh hưởng bởi "bát phong", người
sống với cái đầu thì có tính toán nên khổ đau, người sống
với tâm chân thật thì lúc nào cũng tự tại và khinh an.
Trong
năm giới cấm cho người phật tử tu tại gia, giới cấm " nói dối
" là quan trọng nhất. Ai đã làm được điều nầy ? ngay cả bậc tu
sĩ còn không giữ được thì việc giác ngộ là không thể nào.
Chuyện KHÔNG nói CÓ, đó là bất tín. Khổng Tử có nói : " nhất
điều bất tín, vạn sự bất tin " chỉ cần một lần nói dối,
ngàn lần nói thật sau đó cũng chẵng ai tin. Làm sao mình có
thể diển tả một cõi nào đó mà mình chưa từng đến bao giờ ?
Nói dối là một trọng tội, cảnh giới địa ngục đối với họ là
có còn cực lạc hay thiên đàng thì vô phương.
Phật
dạy sống không cần cầu nguyện, chỉ cần tỉnh thức và nhận
biết. Đừng tin vào bất kỳ một vị Phật nào đến cứu mình vì
không ai có thể làm được điều nầy, người dạy mình ngồi kêu tên
Phật đã là điều nghịch lý, người hành theo lại càng ngu xuẫn
hơn. Người dạy đã tự lừa bản thân mình, người tin theo cả hai
đều giả dối. Làm sao một vị Phật lại rướt những người phạm
giới nói dối về cõi của mình ?
Đạo
Phật là đạo " phá mê khai ngộ ", ngài đã từng nói 33 cõi
trời Phạm Thiên của ngoại đạo thần giáo là không có thì không
thể nào lại giới thiệu cho đệ tử mình có cảnh giới ở phương
tây sau khi chết được tiếp dẩn về, điều nầy là không thể.
Người tu theo đạo Phật phải biết và nhận ra mình là Phật, chứ không thể ngồi kêu tên Phật thì sẽ thành. Niệm Phật không thể
thành Phật được, quan niệm rằng khi niệm liên tục là cốt không
cho vọng tưởng chen vào, vậy khi hết niệm thì vọng có vào
được không ? khi không còn một niệm tưởng nào chen vào thì
người đó trở thành người máy, người máy không có bản tín của
con người nên không thể thành Phật được. Người muốn thành Phật
thì phải tu và hành 37 phẩm trợ đạo, Phật không phải là
người máy nên nhớ điều nầy. Phật có nghĩa là người tỉnh thức
rồi đánh thức mọi người dậy cũng giống như mình. Ngài đã phủ
nhận việc có thần thánh và linh hồn thì không thể nào lại giới
thiệu có người đến tiếp dẩn về cõi Cực lạc được, điều nầy là vô lý. Hai từ " tiếp dẩn "
đồng nghĩa với " dẩn độ " hay " áp tải ", người đó chỉ là
trung gian đến nhận hay còn gọi là bắt đi, dẩn đi mà không cần
chờ lập thủ tục bởi vì bản án đã có sẵn. Làm sao một
người đệ tử Phật giới luật giữ không nghiêm minh như: sát sanh,
trộm cướp, tà dâm, uống rượu, nói dối...thân hành thì vẫn còn
: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...sau khi chết lại được rướt
về cõi Phật để được sung sướng đời đời ? dựa vào Nhân-Qủa
điều nầy có chấp nhận được không ? nếu giáo điều nầy là chắc
cú thì việc tu hành giữ giới cho đạo hạnh được trang nghiêm
có ích gì ? đúng không ? và " người tiếp dẩn " như đã nói,
chắc chắn không phải là vị Phật, vì Phật là phải có đủ từ
bi và trí tuệ song hành. Đức Phật ngài đã từng xác nhận,
ngài không phải là một vị thần hay thánh như người ngoại đạo
thần giáo thường nghĩ, nên ngài không có ban phước hay xử phạt
ai và cũng không tiếp dẩn ai về một cõi riêng nào, nên việc
phóng loa lên tiếng nói ngài có giới thiệu cảnh giới Cực lạc của Phật Adiđà thì chẵng khác nào phóng loa hô hào đức Như Lai là người vô tài kém trí
không giáo hóa được chúng sanh.
Cuộc
sống là phẩm chất của con người cần được chia sẻ, bất kỳ
cái gì mình có đủ duyên thì nên chia sẻ đến với mọi người,
đạo Phật gọi đó là bố thí hay hỷ xả. Bố thí đối lại là
tích lũy, người tích lũy là người tham lam, làm nô lệ cho vật
chất. Buông xả những gì mình có rồi mọi thứ sẽ tiếp tục đến
với mình đầy đủ như một dòng nước đang tuôn chảy...Đừng làm
bất cứ điều gì với mọi người những điều mà mình không muốn
làm cho mình, thì như thế mới có hạnh phúc và an lạc. Chúng
ta sanh ra trong tự do nhưng xã hội là một tập thể đầy lừa gạt
và gỉa dối, người muốn có được hạnh phúc thì phải sống
thiết tha với tâm chân thật của mình, đừng sa vào giới cấm,
chỉ có từ bi mới hóa giải được tham và sân, do có lòng Từ nên
không tham vật của người, do có tâm Bi nên không dể sân hận,
người sống với trí tuệ là người có chánh kiến, đi trong chánh
pháp nên những si mê đều được hóa giải.
Phật
dạy Sống và Chết không phải hai, người thấy có hai là sống xa
rời chân lý, đang đeo sự sợ hãy về cái chết bên mình, nên khi
chết, chết không được do vì qúa sợ. Phật thuyết: Sống là cách
huân tập theo chân lý để nhận ra mình và trở về nhà, Chết là
chết cái Ta, cái bản ngã đang hiện hữu, cái sống trong vọng
tưởng vô minh thường kiến của ngoại đạo. Người trở về nhà
được là lúc đó bản ngã không còn, vọng tưởng biến mất nhường
chổ cho phật tánh hiện tiền.
Người
sống bằng đầu là cái luôn tiếp xúc bên ngoài nên bao giờ cũng
bị ảnh hưởng bởi sóng gió nên không thể thức tỉnh, chỉ khi sống
với chân tâm thì nơi đó mới thật sự yên tịnh, nơi đó mới thật
sự là cực lạc. Phật thuyết: "do cái nầy sanh nên cái kia sanh,
do cái nầy diệt nên cái kia diệt..." Diệt là vô thường là sự
thay củ đổi mới của vũ trụ, sau mỗi thảm họa thiên tai nơi đó
toàn bộ được thay thế lại theo tiến trình mới của hiện
đại...việc đó có cũng là do bởi "do cái nầy có mặt nên cái kia có mặt
". Người đang gieo Nhân, kẻ đang hưởng Qủa, khi vô thường đến
mọi thứ đều không phân biệt vì nơi đó là trống rỗng không có:
Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi.( vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. )
Nhiều người đang lo sợ không biết sau khi chết mình sẽ đi về đâu ?
Ngài
Ngô thừa Ân mượn lời kinh ý Phật, dùng hình tướng ngài
Tu-bồ-đề điểm đạo cho đệ tử mình là Tôn-ngộ-không, cũng là
để nhắc nhở cho hàng hậu học của chúng ta :
-" Từ đâu đến đây, hãy về chổ đó ! "
Không có vấn đề Sanh cũng không có vấn đề Tử.
Đa
số người phật tử dường như đã quên đi lịch sử về một người
viên tịch nơi rừng Sala năm nào, nên cố chạy đi tìm vị thầy khác để cứu
rỗi. Việc "tự mình đốt đuốc lên mà đi" đã không còn thích
nghi vì đường về tây phương đã được kiến tạo bằng " thất bảo "
do bởi các cô thầy sơn phết thêm đã đậm nét. Điều nầy đức
bổn sư đã thấy rõ nên nhắn nhủ các hàng đệ tử của mình
trước khi viên tịch :
- " Sau khi ta nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật và giáo pháp của ta mà làm thầy."
Nhớ: sống đừng bao giờ "nói dối", vì trong bản thể chân tâm không có hai cụm từ nầy.
Nammô bổn sư Thíchcamâuni Phật
Tuệquang
No comments:
Post a Comment